(Tin Mới) Động thái mới nhất của doanh nhân Đào Lan Hương khiến dân tình đổ dồn sự chú ý ở đúng thời điểm diễn biến tình cảm của Phương Oanh và shark Bình nhận được sự chú ý. Sự kiện Doanh nhân Đào Lan Hương Shark Bình Phương Oanh Bạn quan tâm Mai Phương Thúy vô tư để mặt mộc cho dân tình chiêm ngưỡng, nhan sắc sau 15 năm đăng quang gây tranh cãi [kenh14.vn] 6 Sai lầm thường gặp khi chọn nhẫn cầu hôn mà các chàng cần tránh Nhẫn cầu hôn được coi là một trong những kỷ vật thiêng liêng và quan trọng nhất đối với phái đẹp khi đồng ý nhận lời kết hôn với nửa còn lại. *Về tôn giáo : Tôn giáo ảnh hưởng rất quan trọng tới đời sống hôn nhân, nhất là khi quan niệm về hôn nhân giữa hai tôn giáo khác nhau (công nhận đa thê, ly dị). Giáo hội Công giáo mong ước những người cùng niềm tin kết hôn với nhau; đồng thời cũng cho phép kết hôn với người khác đạo hoặc cùng Kitô giáo nhưng không hiệp thông với Hội Thánh Roma. Bước 4. Lập kế hoạch cùng nhau. Bây giờ bạn đã tập hợp được tất cả thông tin này, hãy cùng ngồi lại với nhân viên đó và cùng lập kế hoạch đào tạo. Đây là điều bạn nên làm thường xuyên, ít nhất mỗi năm một lần hoặc có thể thường xuyên hơn. Lập kế hoạch Chuyên mục: "Giải Đáp Hôn Nhân Công Giáo" là một chương trình mà những người thực hiện mong muốn trở nên nhịp cầu để mọi người, đặc biệt là các bạn trẻ dễ dàng tiếp cận và gần gũi hơn với những quy định của Giáo hội Công giáo trong vấn đề hôn nhân. BẠN ĐANG TÌM HIỂU VỀ STARTUP EDUCATION BẠN LÀ: - Người kinh doanh chân chính, muốn tìm kiếm Quy Trình Khởi Nghiệp Thuận Theo Lý và Luật của Vũ Trụ? Hồng Đào khoe nhan sắc khác lạ, tiết lộ đã có 'tình yêu mới' sau 3 năm ly hôn Quang Minh Quang Minh liên tục bị nghi ngờ về giới tính sau 3 năm ly, Hồng Đào bất ngờ tiết lộ đã có 'tinh yêu mới' khiến CĐM ngỡ ngàng. Sau thời gian dài vắng bóng, Hồng Đào vừa tái jF7wj. Mẫu đơn xin chuẩn hôn nhân khác đạo là gì? Mẫu đơn xin chuẩn hôn nhân khác đạo để làm gì? Mẫu đơn xin chuẩn hôn nhân khác đạo 2021? Hướng dẫn viết đơn? Thông tin liên quan?Kết hôn là vấn đề tự nguyện giữa một nam và một nữ và theo quy định của pháp luật về kết hôn, Vậy thì hôn nhân khi Nam, nữ theo đạo thì có gì khác biệt. và kết hôn giữa những người khác đạo có gì đặc biệt. Hôn nhân khác đạo là hôn nhân giữa một người Công giáo và một người không được Rửa tội. Hôn nhân dị giáo bị ngăn trở tiêu hôn, nên phải được miễn chuẩn ngăn trở thì mới kết hôn thành sự Sẽ không được Đấng Bản quyền miễn chuẩn nếu không chu toàn những điều kiện về việc bên Công giáo” phải tuyên bố mình sẵn sàng tránh mọi nguy cơ mất đức tin và thành thật cam kết sẽ làm hết sức để tất cả con cái được Rửa tội và được giáo dục trong Giáo hội Công giáo. vậy mẫu đơn xin chuẩn hôn nhân khác đạo thì cần làm những gì ? hãy tìm hiểu về các thông tin liên quan tới xin chuẩn hôn nhân khác đạo dưới bài viết sau đây. Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài Mẫu đơn xin chuẩn hôn nhân khác đạo là mẫu đơn soạn gửi tới đức cha, giáo phận… để xin chuẩn hôn nhân khác đạo. Mẫu đơn xin chuẩn hôn nhân khác đạo là mẫu đơn được lập ra để xin được chuẩn hôn nhân khác đạo 2. Mẫu đơn xin chuẩn hôn nhân khác đạo GIÁO PHẬN ………… Giáo hạt ……………… Giáo xứ ……………… ĐƠN XIN CHUẨN HÔN NHÂN KHÁC ĐẠO Phải viết bằng tay Kính gửi Đức Cha ………. Giám mục giáo phận …….. Con tên là tên thánh, họ tên ………………. Sinh ngày ………….. tháng ……….. năm ………………. Rửa tội ngày………………. tháng …………. năm ……………… Sổ Rửa tội ………….. Thêm sức ngày…………. tháng …………. năm ……………… Sổ Thêm sức ………… Con ông tên thánh, họ tên …………… Và bà tên thánh, họ tên ……….. Hiện ở địa chỉ đầy đủ…………. Thuộc Giáo xứ ………… Con dự định kết hôn với anh/cô …………….. Sinh ngày …….. tháng … năm……. tại ……. Tôn giáo ……….. Con ông ………… Và bà ……….. Hiện ở địa chỉ đầy đủ ………… ………… Bạn con hiện …….. có gia đình. Bạn con chưa muốn vào Đạo vì ………… nên con làm đơn này xin Đức Cha ban Phép Chuẩn Hôn Nhân Khác Đạo cho chúng con. Phần con, con cam kết – Sẵn sàng tránh xa mọi nguy cơ làm tổn hại đức tin; – Sẽ hết sức cố gắng để con cái được Rửa tội và được giáo dục trong đức tin Công giáo. – Bạn con đã được thông báo và ý thức thực sự về những điều con cam kết trên. – Cả hai chúng con đều hiểu biết về bản chất, những mục đích và đặc tính chính yếu của hôn nhân Kitô giáo, và không loại trừ điều gì. Kính xin Đức Cha ban phép chuẩn và chúc lành cho hôn nhân của chúng con. ……….., ngày…tháng…năm… Bên không Công giáo Ký và ghi họ tên Bên Công giáo Ký và ghi họ tên Ý kiến của Cha Quản xứ hoặc Cha đặc trách Con là ………… , Quản xứ hoặc đặc trách giáo xứ , xác nhận những điều trong đơn xin chuẩn hôn nhân khác đạo của anh/chị …………. đúng sự thật. Con đã làm đủ các thủ tục cho anh/chị ………….. trước khi kết hôn theo Giáo luật. Kính xin Đức Cha ban chuẩn hôn nhân khác đạo cho anh/chị …, ngày…tháng…năm… Ký tên và đóng dấu 3. Hướng dẫn viết đơn – Ghi đầy đủ thông tin cá nhan – Kết hôn với ai – cam kết Sẵn sàng tránh xa mọi nguy cơ làm tổn hại đức tin; – Sẽ hết sức cố gắng để con cái được Rửa tội và được giáo dục trong đức tin Công giáo. – Bạn con đã được thông báo và ý thức thực sự về những điều con cam kết trên. – Cả hai chúng con đều hiểu biết về bản chất, những mục đích và đặc tính chính yếu của hôn nhân Kitô giáo, và không loại trừ điều gì. – Kính xin Đức Cha ban phép chuẩn và chúc lành cho hôn nhân của chúng con. – Cuối cùng là ý kiến của cha và chữ kí của người làm đơn 4. Thông tin liên quan – Việc chuẩn hôn phối như sau Giáo Hôi Công giáo luôn tôn trọng tình yêu đôi lứa, và không đưa ra bất cứ một hình thức kỳ thị nào trong việc biểu tỏ tình yêu của đôi bạn nam nữ. Tuy nhiên, trong khi nỗ lực hoạt động để bảo vệ phẩm giá của hôn nhân gia đình, Giáo Hội cũng không thể bỏ quên sứ vụ chính yếu của mình là mang ơn cứu độ đến cho mọi người. Vì thế, việc bảo vệ đức tin của các tín hữu là trách nhiệm hàng đầu của Giáo Hội như là Mẹ, bởi chính Giáo Hội sinh ra các kitô hữu. – Vì thế mà đặt ra ngăn trở tiêu hôn vì lý do đức tin là để minh định rằng đức tin là ân huệ lơn lao nhất của người tín hữu, và nó không được đánh đổi bởi bất cứ lý do gì, vì đánh mất đức tin là đánh mất sự sống đời đời. – Tuy nhiên, Giáo Hội như là Mẹ hiền, luôn đồng cảm với thân phận yếu đuối của con người, và thấu hiểu được lý lẽ của con tim, nên Giáo Hội đã đưa ra sự chuẩn chước cho con cái của mình khi muốn kết hôn với người không phải là công giáo. Đưa ra sự chuẩn chước này một mặt Giáo Hội tôn trọng tình yêu đôi lứa, mặt khác Giáo Hội vẫn thể hiện sự quan tâm về đời sống đức tin của con cái mình. – Điều kiện để được chuẩn hôn phối Phép chuẩn hôn phối được ban do Đấng bản quyền địa phương. Theo Giáo luật khoản 1125 Nếu có lý do chính đáng và hợp lý, Bản Quyền sở tại có thể ban phép ấy; tuy nhiên, đừng nên ban phép khi chưa hội đủ những điều kiện sau đây + Bên công giáo phải tuyên bố sẵn sàng xa tránh mọi nguy cơ làm tổn thất Đức Tin, và hứa thành thật sẽ làm hết mọi sự có thể để con cái được rửa tội và giáo dục trong Giáo Hội công giáo. + Vào lúc thuận lợi, phải cho bên kia biết những lời hứa mà người công giáo phải giữ, để chính họ được thực sự ý thức về lời hứa và bổn phận của bên công giáo. + Cả hai bên phải được giáo huấn về các mục đích và đặc tính cốt yếu của hôn phối, và không bên nào được loại bỏ các điều ấy. + Tuổi để được chuẩn hôn phối Về tuổi để được chuẩn hôn phối thông lệ vẫn theo số tuổi kết hôn thành sự. Theo Giáo luật Người nam phải đủ 16 tuổi, người nữ phải đủ 14 tuổi. Tuy nhiên Hội đồng Giám Mục có quyền ấn định tuổi lớn hơn để kết hôn hợp pháp. Cách chung, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam qui định tuổi kết hôn theo luật Hôn Nhân và Gia Đình tại Việt Nam nam bước vào tuổi 20 và nữ bước vào tuổi 18. Ngoài ra, mỗi Giáo phận vì lý do mục vụ, Đức Giám Mục Giáo phận có quyền qui định tuổi để được chuẩn hôn phối. – Đối với Việc cử hành thánh lễ hôn phối dành cho các đôi chuẩn hôn phối Thánh lễ hôn phối diễn tả mầu nhiệm Đức Kitô yêu thương Hôi Thánh, được biểu tỏ cách cụ thể qua giao ước hôn nhân của hai người nam nữ kitô hữu. Giáo ước hôn nhân này vì thế được gọi là bí tích. – Về Giao ước hôn nhân giữa một người được rửa tội và một người không được rửa tội không đủ yếu tố để trở thành bí tích, vì thế, việc cử hành hôn phối này trong Thánh Lễ sẽ không đạt tới mục đích của Thánh Lễ Hôn phối. Ngoài ra Thánh Lễ là một Mầu nhiệm dành cho những người có đức tin, bởi nếu không có đức tin họ sẽ không thể tuyên xưng điểm cốt yếu của mầu nhiệm Thánh Thể tuyên xưng Chúa Giêsu Chết, Phục sinh và Đến trong vinh quang, và như vậy Thánh Lễ đối với họ đơn giản chỉ là một nghi lễ bình thường mang đặc tính của một tín ngưỡng chứ không phải là hình thức phụng vụ mang đặc tính tôn giáo. Và thật là không hay khi trong Thánh Lễ hôn phối giữa hai vợ chồng đã có hai cái nhìn khác nhau ngay từ giây phút tỏ bày giao ước hôn nhân. Vì vậy, bộ Phụng Tự và Kỷ luật Bí tích đã chuẩn bị một nghi thức cử hành hôn phối ngoài thánh lễ, đặc biệt dành cho người công giáo kết hôn với người không công giáo. – Nghi thức được tiến hành như sau – Cử hành kết hôn khác đạo phải theo nghi thức cử hành hôn phối ngoài Thánh Lễ. Có thể linh động cử hành kết hôn khác đạo trước hay sau Thánh Lễ. Cũng có thể cử hành nghi thức kết hôn trong nhà thờ hoặc một nơi thích hợp khác và Nơi thích hợp khác có thể là tại tư gia. Tuy nhiên, việc cử hành kết hôn tại tư gia chỉ nên áp dụng cho trường hợp thành sự hóa hay hợp thức hóa hôn phối cho đôi hôn phối đã sống chung hay chỉ đã kết hôn theo luật dân sự, và nay bên lương lại không chấp nhận đến nhà thờ. – Về việc thờ cúng tổ tiên như sau Người tân tòng trở về nhà cha mẹ mình, hay người phối ngẫu sống trong gia đình bố mẹ vợ/chồng ngoại giáo. Được thực hành những việc đốt hương, nhang, đèn, nến trên bàn thờ gia tiên; Được vái lạy trước bàn thờ gia tiên hay giường thờ tổ tiên, vì là những cử chỉ thái độ hiếu thảo tôn kính đối với ông bà tổ tiên; Ngày “kỵ nhật” tức ngày giỗ được “cúng giỗ” trong gia đình theo phong tục địa phương, Trong tang lễ, được vái lạy trước thi hài người quá cố, đốt hương vái theo phong tục địa phương, Được tham dự nghi lễ tôn kính vị Thành Hoàng quen gọi là “Phúc thần” tại đình làng, để tỏ lòng cung kính biết ơn những vị đã có công với dân tộc hoặc là ân nhân của dân làng. Trên đây là các thông tin về hôn nhân khác đạo và xin chuẩn hôn nhân khác đạo với các thông tin như mẫu đơn, hướng dẫn, thông tin đi kèm để có thê xin chuẩn hôn nhân khác đạo được tiến hành nhanh nhất. Hôn nhân khác đạo là gì? Nghi thức kết hôn khác đạo Luật sư Luyện Ngọc Hùng 31-05-2023 Kiến thức pháp luật , 507 Lượt xem Hôn nhân khác đạo là gì? Nghi thức kết hôn khác đạo. Pháp luật quy định như thế nào về hôn nhân khác đạo. Cùng Luật Hùng Sơn theo dõi bài viết dưới đây Hôn nhân khác đạo là gì? Hôn nhân khác đạo tôn giáo là hôn nhân giữa một bên là Công giáo, và một bên không phải là công người công giáo. Tại Việt Nam, ngày nay vẫn có những quan điểm khắt khe đối với con cái trong hôn nhân khác tôn giáo. Nếu bên không Công giáo; nhưng đã được rửa tội trong Hội Thánh Tin Lành hay Chính Thống, thì hôn nhân này được gọi là hôn nhân dị tín hay hôn nhân hỗn hợp. Nếu bên công giáo chưa được rửa tội; thì hôn nhân này được gọi là dị giáo hay gọi cách khác là hôn nhân khác đạo. Theo luật hiện hành của của Hội Giáo Hôn nhân hỗn hợp chỉ hợp pháp khi có phép rõ ràng của giáo quyền. Hôn nhân khác đạo chỉ thành sự khi có phép chuẩn rõ ràng của giáo quyền. Vì vậy, nếu hai người có ý định muốn kết hôn mà khác đạo giáo thì phải hiểu biết, chấp nhận mục đích và đặc tính chính yếu của hôn nhân theo giáo lý Công giáo. Bên công giáo cam kết giữ đức tin của mình; bảo đảm cho con cái được rửa tội và giáo dục trong Hội Thánh Công giáo. Cũng cần phải cho bên không Công giáo biết rõ những điều ấy. Pháp luật quy định như thế nào về hôn nhân khác đạo? Thời kỳ hôn nhân là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng; được tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân. Đồng thời, quan hệ vợ chồng chỉ được xác lập khi hai bên kết hôn. Khi đăng ký kết hôn, hai bên nam, nữ phải đáp ứng một số điều kiện nêu tại điều 8 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 như Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên; việc kết hôn do hai bên tự nguyện quyết định; hai bên không bị mất năng lực hành vi dân sự; Không thuộc các trường hợp bị cấm kết hôn như kết hôn giả tạo, tảo hôn, cưỡng ép hôn nhân, đang có vợ hoặc chồng mà kết hôn với người khác, kết hôn trong phạm vi 3 đời… Đặc biệt, việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan có thẩm quyền thực hiện. Nếu không đăng ký thì không có giá trị pháp lý và mối quan hệ đấy sẽ không được pháp luật công nhận. Tôn giáo không phải là rào cản khi kết hôn, pháp luật cũng không cấm những người khác tôn giáo không được kết hôn với nhau. Vì trong đạo thiên chúa nếu hai người khác đạo muốn kết hôn với nhau thì người không theo đạo chỉ cần học giáo lý hôn nhân tức là nếu một người muốn được công nhận hôn nhân khi kết hôn thì chỉ cần theo học giáo lý. Cũng có những trường hợp một bên không cần phải học giáo lý nếu bên còn lại không có yêu cầu. Lớp học giáo lý là hình thức chứ không phải sự ép buộc một người theo đạo, nên bạn có thể theo học và không cần phải đi lễ hằng tuần và chung sống vợ chồng trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau. Nghi thức cưới người khác đạo Hiện nay, khi lấy vợ/chồng theo đạo thiên Chúa, hôn lễ của bạn sẽ được cử hành ở nhà thờ. Bạn cần nhờ hai người có mặt làm chứng cho cô dâu chú rể đồng thời gửi nhẫn cưới cho cha để làm phép lên nhẫn. Một trong những nghi thức cưới thiêng liêng nhất khi lấy vợ/chồng theo đạo thiên chúa đó là bí tích hôn phối. Trước Chúa, đôi bên thề hứa chung thủy, chăm sóc nhau bất kể khi gian nan, lúc bệnh hoạn, đồng thời chấp nhận con cái chứa ban. Người theo đạo thường vừa học văn hóa ở trường và cũng đọc sách học các lớp giáo lý khai tâm và lãnh nhận bí tích giải tội cùng bí tích thánh thể. Sau đó họ sẽ học các lớp giáo lý thêm sức và lãnh nhận bí tích thêm sức. Thời gian hoàn thành các bí tích này thường rơi vào khoảng 6-7 năm. Nếu muốn lấy vợ/chồng theo đạo thiên chúa bạn sẽ phải học các lớp giáo huấn để theo kịp họ. Thông thường ít nhất cũng 6 năm. Tùy giáo xứ và chương trình học mà thời gian có thể kéo dài từ 6 đến 8 tháng. Lớp giáo lý tân tòng giúp học viên có thêm hiểu biết về tôn giáo và đón nhận đức tin với niềm tin trọn vẹn. Đồng thời bạn cần phải học thuộc các bài kinh theo yêu cầu theo yêu cầu của lớp giáo lý. Các tân tòng được tổ chức thánh lễ trọng thể và sẽ được lãnh nhận đồng thời các bí tích rửa tội, thêm sức, thánh thể. Tuy nhiên, bạn cần lưu ý bí tích rửa tội và thêm sức cần có người đỡ đầu. Do đó, bạn cần nhờ một người cùng giới tính và có đạo đỡ đầu cho bạn. Và quan trọng nhất khi bạn đã chính thức được đón nhận là con Chúa, bạn phải hoàn thành điều răn “trong một năm phải xưng tội ít nhất một lần”. Trước khi tổ chức đám cưới trên thánh đường, thông tin hai bạn chuẩn bị kết hôn sẽ được thông báo trên nhà thờ trong ba thánh lễ chủ nhật liên tiếp. Mục đích chuyện này là để những ai có ý phản đối cuộc hôn nhân này sẽ có ý trình lên cha xứ. Tuy nhiên nếu muốn được thông báo thì ban phải xuất trình cho cha xứ giấy chứng nhận đăng ký kết hôn và chứng chỉ giáo lý hôn nhân. Nghi thức kết hôn khác đạo Giáo hội cho phép người công giáo kết hôn với người không theo công giáo qua việc “chuẩn hôn phối”. Phép chuẩn này được ban do đấng bản quyền địa phương. Để làm phép chuẩn hôn phối khác đạo cần chuẩn bị như sau Chứng chỉ giáo lý hôn nhân; Giấy đăng ký kết hôn; Nhẫn cưới; 2 người làm chứng cho hai bên; sổ gia đình công giáo bản chính. Bước 1 Học chứng chỉ giáo lý hôn nhân Bạn cần mang theo giấy giới thiệu từ Cha xứ họ đạo của mình và hai tấm hình thẻ đến xem lịch học và đăng ký lớp phù hợp. Thời gian học dự kiến khoảng 3 tháng. Bước 2 Đăng ký kết hôn Bạn đến UBND phường/xã nơi bạn sinh sống để đăng ký kết hôn, sau đó nộp một bản về cho Giáo xứ nơi bạn đăng ký làm phép chuẩn. Khi có đủ cả chứng chỉ giáo lý hôn nhân và Giấy đăng ký kết hôn. Đến nhà thờ để xin làm phép chuẩn khác đạo. Ngoài gia đình hai bên bạn cần nhờ 2 người làm chứng cho cuộc hôn nhân này, đồng thời chuẩn bị nhẫn cưới cho Cha để làm phép nhẫn. Bước 3 Làm phép chuẩn tại nhà thờ Sau khi đến nhà thờ làm đơn xin chuẩn khác đạo. Thông tin hai người kết hôn sẽ được thông báo khắp nhà thờ và kéo dài trong ba thánh lễ chủ nhật tiếp theo. Cha sẽ sắp xếp thời gian để tiến hành làm phép chuẩn ngoài thánh lễ. Trước chúa, đôi bên hứa thề chung thủy, chăm sóc nhau bất kể khi gian nan, lúc bệnh hoạn, đồng thời chấp nhận con cái chúa ban. Trên đây là toàn bộ thông tin của công ty Luật Hùng Sơn về “Hôn nhân khác đạo là gì? Nghi thức kết hôn khác đạo” Nếu quý khách hàng còn bất kỳ thắc mắc gì cần được giải đáp, xin vui lòng liên hệ với chúng tôi thông qua Hotline 0964 509 555 hoặc đặt lịch ở văn phòng để được các chuyên viên tư vấn trả lời một cách nhanh gọn và chính xác nhất. Cảm ơn quý khách đã theo dõi bài viết. Trân trọng! About Latest Posts Ông Hùng đã làm việc cho Hùng Sơn Law từ những ngày đầu thành lập và có hơn 6 năm kinh nghiệm trong việc tư vấn và hành nghề luật sư tại Việt Nam liên quan đến các Dự án Đầu tư Nước ngoài và Trong nước; Sáp nhập và Mua lại; Luật Doanh nghiệp; Sở hữu trí tuệ. Với những kinh nghiệm có được luật sư Hùng chắc chắn sẽ giúp bạn giải quyết những vấn đề pháp lý đòi hỏi chuyên môn cao Tin mới Các tin khác Video tư vấn pháp luật Nhạc sĩ tác giả bài ca “Tình người ngoại đạo” đã trình bày sự ngần ngại khi yêu người Công giáo Lạy Chúa con thương nàng đã lâu rồi Thương thì nhiều nhưng con chưa dám nói Con thương nàng đã lâu rồi mà chưa dám hé môi Ngại ngùng không cùng tôn giáo thôi. Tại sao lại ngần ngại, bởi có nhiều người hiểu lầm cứ ngỡ rằng đạo Công giáo là vật cản lớn nhất làm cho đôi bạn trẻ khó tiến tới hôn nhân, có bạn đã tâm sự “Em và cô ấy đã yêu nhau được hơn 5 năm. Chúng em yêu nhau rất chân thành, em vừa ra trường, công việc cũng ổn, em muốn kết hôn với cô ấy. Em về nhà và xin phép gia đình hai bên, nhưng hai bên đều không đồng ý vì cô ấy theo đạo Thiên Chúa, còn nhà em thì theo lương. Hai gia đình bất đồng quan điểm”. Quả thật, theo Giáo luật điều 1055 khoản 2 “Giữa những người đã chịu phép rửa tội, không thể có khế ước hôn phối hữu hiệu nếu đồng thời không phải là bí tích”. Có nghĩa là người Kitô hữu khi kết hôn thì hôn phối của họ cần phải được cử hành sao cho thích hợp để trở thành Bí tích, để được như thế điều kiện cần phải có là hai người phối ngẫu phải là Kitô hữu, vì chỉ có Kitô hữu mới có thể trở thành thừa tác viên trao bí tích hôn phối cho nhau. Nói như thế phải chăng Giáo hội Công giáo đang cướp đoạt sự tự do của tình yêu và đang giới hạn tình yêu trong khuôn khổ của niềm tin tôn giáo? Phải chăng Giáo hội Công giáo đang đòi hỏi việc tỏ bày tình yêu giữa người nam và người nữ phải được thể hiện như là một lời tuyên xưng đức tin? Thưa không phải thế, bởi Giáo hội luôn ý thức rằng, mình được hiện hữu nhờ bởi Thiên Chúa yêu thương. Tình yêu này được Thiên Chúa tỏ bày trước tiên qua công trình tạo dựng của Ngài. Sách Sáng Thế đã tường thuật “Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh của Người. Người đã tạo dựng người nam và người nữ. Thiên Chúa thấy điều Người làm điều đó tốt và rất tốt St 1, 27. 31. Việc tạo dựng giống hình ảnh của Ngài chính là giống bản tính Ngài, một bản tính được thánh Gioan minh định Thiên Chúa là Tình yêu 1 Ga 4, 8, vì thế với hình ảnh giống Ngài, con người được mời gọi đi vào yêu thương và sự hiệp thông. Theo thần học Do thái, “vũ trụ được tạo dựng không phải để các tinh tú và các vật thể khác gia tăng trong đó, nhưng để có một không gian cho giao ước, để Thiên Chúa thể hiện tình yêu của Ngài và con người đáp lại”. Tạo dựng là để thực hiện cuộc đối thoại tình yêu của Thiên Chúa với con người, cuộc đối thoại được biểu tỏ trước tiên qua tình yêu mà người nam và người nữ tỏ bày cho nhau. 1. Hôn nhân tự nhiên Như vậy, qua việc tạo dựng con người, Thiên Chúa đã đặt để nơi người nam và người nữ một khả năng yêu thương giống như Thiên Chúa. Theo tường thuật trong sách Sáng Thế, Thiên Chúa tạo dựng nên một mình Ađam trước nhưng ông đã không tìm thấy một niềm vui, ông cảm thấy cô đơn. Thiên Chúa hiểu nỗi cô đơn đó, nên Ngài đã phải thốt lên Con người ở một mình không tốt, nên Ngài đã tạo dựng thêm Evà, và khi vừa thấy Evà, Ađam đã thể hiện một niềm vui khôn tả, đến nỗi ông đã lìa bỏ mọi sự mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt X. St 2, 18-24. Việc lìa bỏ mọi sự để tìm đến với Evà và cả hai gắn kết với nhau để nên một xương một thịt, theo Đức Bênêđictô XVI trong Thông điệp “Thiên Chúa là Tình Yêu” Deus caritas est, nói lên hai điều này “eros như được cắm rễ sâu trong bản tính của con người. Ađam luôn đi tìm và lìa cha mẹ”, để tìm người đàn bà; cả hai hợp lại mới nói lên tính trọn vẹn của con người, “cả hai trở thành một xương một thịt”. Điều thứ hai cũng quan trọng không kém ngay từ lúc sáng tạo, eros hướng con người đến hôn nhân, đến sự ràng buộc, đến sự duy nhất và dứt khoát”[1]. Quả vậy, Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người có nam có nữ và đặt để trong bản tính con người một yếu tố đặc biệt như động lực thúc đẩy họ tìm đến nhau để có thể kết hợp với nhau làm nên một thân xác, đó là yếu tố “tính dục” và là một phần làm nên tình yêu. Như vậy việc nam nữ tới tuổi trưởng thành thể hiện tình yêu dành cho nhau nó thuộc về bản chất, do đó, chẳng ai có quyền ngăn cản tình yêu. Bởi thế, Giáo Hội luôn tỏ lòng tôn trọng các cuộc hôn nhân tự nhiên hợp pháp. Cũng nên biết rằng, khi thiết lập định chế hôn nhân, Thiên Chúa ghi dấu ấn vào trong định chế này mang đặc tính đơn hôn và vĩnh hôn, như Công Đồng Triđentinô đã tuyên tín “Mọi hôn nhân hợp pháp do luật tự nhiên và thiên định đều vĩnh viễn và bất khả phân ly”, điều đó có nghĩa hôn nhân của những lương dân nếu không có ngăn trở theo luật tự nhiên và thiên luật thì được coi là hợp pháp. Quả thật, “Đấng Tạo Hóa đã thiết lập và ban những quy luật riêng cho cộng đồng của sự sống và tình yêu đầy thân mật giữa đôi vợ chồng. Cuộc sống chung đó được gầy dựng do giao ước hôn nhân, nghĩa là do sự ưng thuận không thể rút lại của từng cá nhân. Như thế, bởi một hành vi nhân linh, trong đó, hai vợ chồng tự hiến cho nhau và đón nhận nhau, nhờ sự an bài của Thiên Chúa, phát sinh một định chế vững chắc có giá trị ngay cả đối với xã hội. Vì lợi ích của lứa đôi, của con cái và của xã hội, mối dây liên kết linh thiêng này không thể đặt dưới sự phân xử tùy tiện của con người” GS số 48. 2. Hôn nhân bí tích Câu hỏi được đặt ra là vậy tại sao Giáo hội lại không cho người Công giáo kết hôn với người ngoài Công giáo? Nói không cho là hoàn toàn sai. Như đã nói Giáo hội luôn tôn trọng tình yêu giữa người nam và người nữ, Giáo hội tôn trọng sự tự do trong tình yêu và không bao giờ đưa ra một sự kỳ thị nào về tôn giáo, màu da, ngôn ngữ… Tuy nhiên, Giáo hội cũng ý thức về trách vụ của mình là phải chăm lo thiện ích cho con cái của mình, nhất là thiện ích về sự sống đời đời, sự sống mà Chúa Kitô đã hứa ban tặng cho những ai tin vào Người. Và vì thế, sự sống đời đời có một giá trị cao hơn các giá trị khác. Do đó, để giúp con cái của mình luôn trung thành với đức tin hầu có thể đạt tới sự sống đời đời, Giáo hội đồng ý cho phép con cái của mình kết hôn với người ngoài Giáo hội với một số điều kiện. Chung quy các điều kiện đó liên quan đến đời sống đức tin của người Công giáo, sự cho phép này theo thuật ngữ chuyên môn gọi là phép “chuẩn hôn phối”. Để hiểu rõ tại sao phải chuẩn hôn phối cho người Công giáo khi kết hôn với người ngoài Công giáo, trước tiên chúng ta nói về mầu nhiệm Giáo Hội. Giáo hội là một cộng đoàn được Chúa quy tụ trong đức tin. Qua Bí tích Rửa tội, người tín hữu được trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, và được tháp nhập vào thân thể huyền nhiệm của Người, tức Giáo hội, nói như thánh Phaolô Tông đồ “Cũng như trong một thân thể, chúng ta có nhiều bộ phận, mà các bộ phận không có cùng một chức năng, thì chúng ta cũng vậy tuy nhiều nhưng chỉ là một thân thể trong Đức Kitô, mỗi người liên đới với những người khác như những bộ phận của một thân thể” Rm 12,4-5. Như vậy, khi được tháp nhập vào thân mình huyền nhiệm này, tất cả mọi Kitô hữu không ai là người đơn lẻ trong Giáo hội, nhưng mọi người đều có sự hiệp thông và hiệp nhất tất cả đều có tương quan với các người khác và tất cả đều đồng quy về việc làm thành một thân thể sống động duy nhất, gắn liền với Chúa Kitô một cách sâu xa. Chúng ta hãy nhớ rõ điều này “là thành phần của Giáo hội có nghĩa là kết hiệp với Chúa Kitô và nhận được từ Người sự sống thiên linh khiến cho chúng ta sống như kitô hữu”[2]. Chính trong sự hiệp thông này Giáo hội được nhìn như một cộng đoàn đức ái, một cộng đoàn với dáng vẻ của một thục nữ và được gọi là hiền thê của Chúa Kitô. Hình ảnh Giáo hội như là Hiền Thê của Chúa Kitô được Công đồng Vat. II trình bày trong hiến chế Lumen Gentium “Giáo hội… được mô tả như hiền thê tinh tuyền của Con chiên không tì ố, được Chúa Kitô yêu mến và hiến thân để thánh hóa’, được Người kết hợp bằng một giao ước bất khả phân ly được nuôi dưỡng và săn sóc’ không ngừng. Sau khi thanh tẩy hiền thê, Chúa Kitô muốn hiền thê ấy kết hợp và vâng phục mình trong tình yêu và trung tín ” LG số 6. Khi trình bày hình ảnh Hiền thê, Công đồng Vat. II diễn tả đến mối tương quan đối đương giữa Chúa Kitô và Giáo hội được xây dựng trên tình yêu, mà thánh Phaolô trình bày như là tình yêu hôn nhân vợ chồng x. Ep 5, 21 – 32. Trong thư gởi tín hữu Êphêsô Thánh Phaolô đã trình bày mối tương giao giữa Chúa Giêsu và Giáo hội là mối tương giao trong tình nghĩa vợ chồng x. Ep 5, 21 – 33. Qua đó Thánh Tông đồ đã trình bày Chúa Giêsu như vị Hôn thê của Giáo hội, đã yêu thương Giáo hội như người bạn trăm năm. Qua mối tương giao Chồng – Vợ, Thánh Phaolô đã khám phá chiều kích hiệp thông nên một “thân mình” giữa Chúa Kitô và Giáo hội “…người ta nuôi nấng và chăm sóc thân xác mình, cũng như Đức Kitô nuôi nấng và chăm sóc Giáo hội, vì chúng ta là một trong thân thể của Người. Sách Thánh có lời chép rằng “Chính vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Kitô và Giáo hội” Ep 5, 29 – 32. Quả thật “Chúa Kitô yêu thương Giáo hội như hiền thê Người, Người trở thành gương mẫu của người chồng yêu thương vợ mình như yêu chính bản thân x. Ep 5, 25 – 28” x. LG số 7. Hiểu Giáo hội như thế, chúng ta mới nhận ra rằng, mỗi một Kitô hữu đều thuộc về dung mạo Hiền Thê Chúa Kitô, dung mạo đó được biểu lộ trong suốt đời sống của người Kitô hữu, cho nên việc kết hôn của người Kitô hữu không phải là một việc làm mang tính cá nhân, một công việc thuần tính tự nhiên, nhưng tự bản chất đó là công việc của Hội thánh, bởi mỗi tín hữu là một chi thể của Nhiệm thể Chúa Kitô, kết nên hình ảnh Hiền Thê của Người. Vì là công việc thuộc về Giáo hội, nên việc kết hôn của người tín hữu phải thực sự diễn tả trọn vẹn huyền nhiệm mà mình thuộc về, đó là huyền nhiệm yêu thương giữa Chúa Kitô và Hội thánh. Bởi thế, việc kết hôn của người Kitô hữu phải thể hiện tính bí tích, đó là điều mà Giáo luật nói tới “Giữa những người đã chịu phép rửa tội, không thể có khế ước hôn phối hữu hiệu nếu đồng thời không phải là bí tích”[3]. 3. Hôn phối giữa người Công giáo và không Công giáo Vì là bí tích, nên việc kết hôn phải được cử hành giữa hai người đã được rửa tội, vì người không được rửa tội thì không có khả năng trao bí tích. Bởi bí tích hôn phối không đơn giản là một nghi lễ mang tính hình thức bên ngoài, không phải chỉ là một khế ước giữa người với người, nhưng đây còn là dấu chỉ thánh nhằm hướng tới một thực tại thánh thiêng, một thực tại trình bày lý do tại sao Giáo hội hiện hữu, đó là thực tại về một tình yêu vô cùng lớn lao mà Chúa Giêsu Kitô dành cho Giáo hội, nhờ tình yêu này, mà con người được quy tụ vào trong cung lòng của Giáo hội, nơi mà mọi người nhận được ơn cứu độ. Vì thế, sự kết hợp của vợ chồng trong hôn nhân diễn tả sự kết hợp giữa Chúa Kitô và Hội thánh. Sự hy sinh của vợ chồng dành cho nhau là hình ảnh sự hy sinh của Chúa dành cho Giáo Hội. Công đồng Vat. II đã nói đến hiệu quả mà bí tích hôn nhân mang lại 1 Khi hai người yêu nhau muốn được Thiên Chúa chúc phúc cho họ, thì Bí tích hai người ban cho nhau, cũng sẽ đem lại cho họ ân sủng và phúc lành của Chúa. 2 Đối với người Công giáo, hôn nhân còn là môi trường giúp cho họ cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa dành cho họ một cách cụ thể qua tình yêu của người yêu. Nói cách khác, trong tình yêu hôn nhân họ cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa dành cho họ một cách cụ thể Họ dễ dàng xác tín rằng Thiên Chúa yêu thương họ tha thiết trong vòng tay của người yêu. Tình yêu trong hôn nhân như thế chính là hình ảnh tình yêu của Chúa dành cho con người. GS, số 48. Vì thế, bí tích hôn phối không phải chỉ được cử hành một lần trong nghi thức Phụng vụ, mà còn cần phải được cử hành mỗi ngày một cách cụ thể trong đời sống thường ngày giữa hai vợ chồng bằng cách tận hiến cho Chúa và hy sinh cho nhau. Như thế, Bí tích Hôn phối là một phần thuộc thực tại cứu độ bao la của Thiên Chúa dành cho loài người qua sự tử nạn và phục sinh của Đức Kitô, Con yêu dấu của Ngài. Vì là dấu chỉ bí tích nên việc kết hôn của người Kitô hữu phải được thực hiện giữa hai người đã được rửa tội như đã trình bày ở trên. Tuy nhiên, tình yêu có bao giờ lại bị giới hạn trong một quy định, một giới luật! Đã là con người, cho dẫu xấu như Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao cũng khao khát yêu và được yêu, thì có gì có thể ngăn cản tình yêu nảy nở giữa hai người khi đã bị tiếng sét ái tình đánh gục! Bởi đó Giáo Hội cũng luôn rộng lòng tạo điều kiện cho con cái của mình được thành hôn với những người chưa được rửa tội nếu họ yêu nhau, như đã nói, Giáo hội tạo điều kiện qua phép chuẩn. Phép chuẩn này cho phép người Kitô hữu được kết hôn với lương dân mà không vi phạm luật về bí tích Hôn phối. Việc cho phép này tạo điều kiện cho người tín hữu sau khi kết hôn được tiếp tục thi hành đời sống đức tin Công giáo của mình, cụ thể là được lãnh bí tích Hoà Giải và bí tích Thánh Thể, được tham dự cách tích cực vào các công việc mục vụ trong Giáo hội. Phép chuẩn hôn phối được ban do Đấng bản quyền địa phương. Theo Giáo luật khoản 1125 Nếu có lý do chính đáng và hợp lý, Bản quyền sở tại có thể ban phép ấy; tuy nhiên, đừng nên ban phép khi chưa hội đủ những điều kiện sau đây Bên Công giáo phải tuyên bố sẵn sàng xa tránh mọi nguy cơ làm tổn thất Đức tin, và hứa thành thật sẽ làm hết mọi sự có thể để con cái được rửa tội và giáo dục trong Giáo hội Công giáo. Vào lúc thuận lợi, phải cho bên kia biết những lời hứa mà người Công giáo phải giữ, để chính họ được thực sự ý thức về lời hứa và bổn phận của bên Công giáo. Cả hai bên phải được giáo huấn về các mục đích và đặc tính cốt yếu của hôn phối, và không bên nào được loại bỏ các điều ấy. Việc chuẩn như thế để thấy một mặt Giáo hội luôn tôn trọng tình yêu đôi lứa, đàng khác Giáo hội cũng không quên nhiệm vụ chính yếu của mình là luôn hướng dẫn con cái luôn đặt giá trị của ơn cứu chuộc lên hàng đầu. Việc kết hôn giữa một người Công giáo và lương dân không làm thành Bí tích Hôn phối, nhưng đặc tính hôn nhân vẫn có giá trị trọn vẹn, đó là bất khả phân ly và một vợ một chồng, và buộc hai bên phải tuân giữ, vì những đặc tính này không do bí tích Hôn phối mang lại, nhưng là do Thiên Chúa thiết định khi Ngài thiết lập định chế hôn nhân. 4. Những thách đố Trong khi đề cao tình yêu nam nữ và ban phép chuẩn cho các cuộc tình không cùng niềm tin Kitô giáo được tiến tới hôn nhân một cách hợp pháp, Giáo hội cũng nhắc nhở con cái của mình đừng quên rằng, trong cuộc sống gia đình, trước mặt còn đối diện với nhiều thách đố a- Về tính bền vững của hôn nhân Cha ông Việt Nam ta có câu “Thuận vợ thuận chồng tát biển Đông cũng cạn”, để nói lên tầm quan trọng của sự thuận thảo trong gia đình, nhất là giữa vợ chồng. Kiểu ông nói gà bà nói vịt thì gia đình không thể nào đạt tới sự thiện ích của nó. Việc thuận vợ thuận chồng không chỉ gói gọn trong các quyết định chỉ liên quan đến những thực tại trần thế như việc đầu tư, việc chọn vợ gả chồng cho con, việc giáo dục con cai… Nhưng còn có một thực tại quan trọng hơn nhiều đó là đời sống tâm linh. Quả thật, đời sống gia đình không luôn luôn là con đường trải đầy hoa hồng, nhưng có thể nói, vợ chồng luôn đối diện với bao thách đố của cuộc đời, bao là bão tố, bao là lo toan. Đứng trước những thách đố, vợ chồng cảm thấy như bất lực, mệt mỏi, chính niềm tin tôn giáo như là chiếc phao cứu sinh. Thế nhưng trong hoàn cảnh niềm tin tôn giáo không cùng song hành với hai vợ chồng thì quả thật đây là vấn đề nan giải. Chẳng hạn ngày Chúa nhật người Công giáo muốn đi lễ để thi hành trọn vẹn đời sống đức tin của mình, nhưng người không Công giáo lại có kế hoạch đưa cả gia đình đi chơi, hạt giống bất hòa bắt đầu được gieo; hay là những nan giải trong việc thờ cúng giỗ chạp giữa các tôn giáo, làm sao phận làm dâu, làm rể có thể chu tất mà không đi ngược lại với đức tin Công giáo? Rồi việc con cái có được rửa tội hay không theo điều đã cam kết?… Vô số vấn đề nảy sinh giữa hai niềm tin khác nhau trong đời sống vợ chồng, và thật là khó nghĩ khi hai người kết hợp nên một thân mình, nhưng trong thân mình đó lại đối kháng với nhau về niềm tin tôn giáo. Kết quả của sự đối kháng đó là sự bất hòa làm cho đời sống vợ chồng nên nặng nề, nảy sinh bao nhiêu là cuộc cãi vã và rồi sự thuỷ chung của đời sống vợ chồng từ từ gãy đổ. b- Về đời sống đức tin của người Công giáo Cho dẫu trong tờ cam kết xin chuẩn hôn phối bên Công giáo hứa sẽ trung thành trong đời sống đức tin, bên không Công giáo cam kết tôn trọng và tạo mọi điều kiện để bên Công giáo sống trọn vẹn với niềm tin của mình. Cam kết là thế, nhưng trong thực tế nhiều đôi hôn phối đã huỷ lời cam kết. Trong một thế giới tục hóa hôm nay, đứng trước trào lưu hưởng thụ ích kỷ, và đề cao các ngẫu tượng như tiền bạc thì quả thật đức tin của người Công giáo trong môi trường của gia đình vắng bóng gương sống đức tin của ông bà, lời nhắc nhủ của cha mẹ, đã bị lung lay và cuối cùng là sống xa lìa hẳn với đức tin Công giáo. Vâng, khi yêu nhau đôi bạn trẻ vẽ bao là mộng đẹp, nhưng khi bước vào cuộc sống hôn nhân mộng đẹp tan vỡ như giọt sương ban mai khi gặp ánh nắng mặt trời. Đức Phanxicô đưa ra lời nhận định “Chỉ khi đối diện với đời sống chung thường nhật, một cuộc sống đòi đôi vợ chồng phải hiến thân và hy sinh cho nhau, một số người mới nhận thấy mình đã không hiểu rõ hôn phối mà họ mới bắt đầu. Và họ thấy mình không thích hợp, nhất là khi phải đối chiếu với tầm mức và giá trị của hôn nhân Kitô, với những khía cạnh cụ thể, gắn liền với đặc tính bất khả phân ly của bí tích hôn phối, sự cởi mở đón nhận hồng ân sự sống và phải chung thủy với nhau”[4]. Vì thế, mục vụ cho các đôi hôn phối khác đạo luôn là nỗi trăn trở của các mục tử, mong tìm cách giúp cho đời sống gia đình của họ đạt tới hạnh phúc và thiện ích. Tuy nhiên, điều quan trọng trước tiên chính là ở nơi các bạn trẻ. Do đó, ước mong sao các bạn trẻ luôn tìm hiểu đúng đắn về người mình yêu, và nghiêm túc khi quyết định tiến tới hôn nhân với một ý thức trách nhiệm minh bạch rõ ràng. Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 115 tháng 11 & 12 năm 2019 [1] Đức Bênêđictô XVI, thông điệp Deus Caritas est, ban hành ngày 25-12-2005 tại Roma, số 11. [2] Đức Phanxicô, bài nói chuyện với khách hành hương tại Roma, ngày 19-6-2013 [3] Giáo luật Điều 1055 § 2 [4] Đức Phanxicô, bài nói chuyện vào ngày 27-9-2018 với 850 tham dự viên khóa huấn luyện về “hôn nhân và gia đình” do giáo phận Roma và tòa Thượng Thẩm Rota ở Roma tổ chức từ ngày 24 đến 26-9-2018 tại Đền thờ Thánh Gioan Laterano. Lm. Antôn Hà văn Minh Hôn nhân khác đạo Con là người đạo Cao Đài, anh ấy là đạo Thiên Chúa. Chúng con tình cờ quen nhau và chúng con rất yêu nhau nhưng ba mẹ con không chấp nhận con yêu người đạo Thiên Chúa. Ba mẹ con không muốn con bỏ đạo của mình nhưng anh ấy thì muốn con nhập đạo bên anh ấy. Con không biết phải làm sao để vừa giữ đạo của con mà vẫn có thể kết hôn với anh ấy mà không cần nhập đạo. Con mong nhận được câu trả lời của người. Con xin cảm ơn người. My Đáp Não trạng độc tôn tôn giáo và cái nhìn chủ quan, thiên kiến về đạo này, đạo khác là lý do đưa đến những hiểu lầm, thiếu thông cảm, nghi kỵ về tôn giáo. Thông thường ai cũng cho đạo mình là tốt, là đúng, là phải. Nhưng nhất là tâm lý chung, ít ai muốn tìm hiểu, học hỏi thêm để tìm cho mình những hướng đi mới mẻ, tốt đẹp hơn. Bởi thế, tôi không mấy hy vọng ba mẹ của chị chấp nhận cho chị yêu và cưới một người khác tôn giáo. Tuy nhiên, nếu người bạn trai của chị mà cũng duy trì quan niệm hẹp hòi về tôn giáo thì là điều đáng tiếc. Anh ấy cần có một tầm nhìn rộng rãi, một sự hiểu biết sâu rộng hơn về niềm tin và tôn giáo. Câu hỏi với anh ta là “Nhập đạo để làm gì?” Và “nhập đạo có phải là một điều kiện để hai người tiến tới hôn nhân, xây dựng một gia đình hạnh phúc không?” Nếu câu trả lời “Em phải vô đạo thì anh mới lấy em. Vì ở bên cha mẹ anh, việc em vô đạo là một điều kiện cần thiết và không thể châm chước”. Hoặc “em phải nhập đạo, vì đạo anh không cho phép hai người ly dị, và đạo anh mới có đủ yếu tố xây dựng một hôn nhân hạnh phúc”, thì lời khuyên của tôi đối với chị là “nên chấm dứt cuộc tình này”, hoặc “nếu đã trót yêu rồi thì đừng vội cưới hỏi” . Bởi vì đầu óc và lối suy tư của cha mẹ anh ấy cũng không rộng rãi gì hơn đầu óc và suy tư của ba mẹ chị về tôn giáo. Và cái nhìn của người bạn chị về tôn giáo và hôn nhân còn ấu trĩ và chưa trưởng thành đủ. Tóm lại, tình yêu và hôn nhân của chị có thể xẩy ra trong những điều kiện sau ba mẹ chị cho phép chị kết hôn với người yêu của chị trong khi vẫn là người Cao Đài. Điều này cùng nghĩa là người yêu của chị không hối thúc chị, cũng như cha mẹ của anh ta không đòi hỏi chị phải theo Công Giáo ngay lúc này. Hôn nhân này người Công Giáo gọi là kết hôn với người khác tôn giáo, và đạo ai nấy giữ. Tôi đã từng giúp cho những cuộc trở lại như vậy, người 17 năm, người 40 năm sau khi kết hôn với người Công Giáo và cảm nhận được niềm tin Công Giáo qua người phối ngẫu. Điều này cũng có nghĩa là sự trở lại đạo Công Giáo trong tương lai của người chồng hay người vợ cũng phần lớn dựa vào thái độ sống và thực hành niềm tin của người phối ngẫu, vì nó có một tầm ảnh hưởng rất lớn giữa tương quan vợ chồng. khi chờ đợi sự ưng thuận của cha mẹ, chị phải tìm hiểu và học hỏi sâu hơn về Công Giáo và Cao Đài. Những điểm tương đồng, những dị biệt về niềm tin và về thực hành giữa hai tôn giáo. Sự hiểu biết này sẽ giúp chị biết cách chia sẻ, chinh phục ba mẹ. Nó cũng sẽ giúp cho ba mẹ của chị có cái nhìn thiện cảm, cởi mở hơn và cho phép chị tiến tới hôn nhân với một người Công Giáo. Ngoài ra, nhờ căn bản về Cao Đài, chị cũng có thể giải thích cho chồng chị mỗi khi có thắc mắc hoặc bất hòa về tôn giáo sau này. 3. Người yêu, người chồng tương lai của chị phải minh chứng cho ba mẹ chị biết đức hạnh và cuộc sống phản ảnh niềm tin tôn giáo của anh ấy như thế nào, bằng cách tôn trọng ba mẹ chị cũng như niềm tin của các ngài. Đặc biệt, phải minh chứng tình yêu chân thành đối với chị, vì cha mẹ nào cũng cảm thấy hài lòng khi nhìn thấy con cái mình được người khác yêu thương và đối xử tử tế. Chính đời sống của anh sẽ giúp hóa giải được thành kiến tôn giáo của ông bà. Chúc chị sớm có ngày hạnh phúc bên người chị yêu, cùng với những nụ cười rạng rỡ của họ hàng hai bên. WHĐ - Nhạc sĩ tác giả bài ca “Tình người ngoại đạo” đã trình bày sự ngần ngại khi yêu người Công giáo Lạy Chúa con thương nàng đã lâu rồi Thương thì nhiều nhưng con chưa dám nói Con thương nàng đã lâu rồi mà chưa dám hé môi Ngại ngùng không cùng tôn giáo thôi. Tại sao lại ngần ngại, bởi có nhiều người hiểu lầm cứ ngỡ rằng đạo Công giáo là vật cản lớn nhất làm cho đôi bạn trẻ khó tiến tới hôn nhân, có bạn đã tâm sự “Em và cô ấy đã yêu nhau được hơn 5 năm. Chúng em yêu nhau rất chân thành, em vừa ra trường, công việc cũng ổn, em muốn kết hôn với cô ấy. Em về nhà và xin phép gia đình hai bên, nhưng hai bên đều không đồng ý vì cô ấy theo đạo Thiên Chúa, còn nhà em thì theo lương. Hai gia đình bất đồng quan điểm”. Quả thật, theo Giáo luật điều 1055 khoản 2 “Giữa những người đã chịu phép rửa tội, không thể có khế ước hôn phối hữu hiệu nếu đồng thời không phải là bí tích”. Có nghĩa là người Kitô hữu khi kết hôn thì hôn phối của họ cần phải được cử hành sao cho thích hợp để trở thành Bí tích, để được như thế điều kiện cần phải có là hai người phối ngẫu phải là Kitô hữu, vì chỉ có Kitô hữu mới có thể trở thành thừa tác viên trao bí tích hôn phối cho nhau. Nói như thế phải chăng Giáo hội Công giáo đang cướp đoạt sự tự do của tình yêu và đang giới hạn tình yêu trong khuôn khổ của niềm tin tôn giáo? Phải chăng Giáo hội Công giáo đang đòi hỏi việc tỏ bày tình yêu giữa người nam và người nữ phải được thể hiện như là một lời tuyên xưng đức tin? Thưa không phải thế, bởi Giáo hội luôn ý thức rằng, mình được hiện hữu nhờ bởi Thiên Chúa yêu thương. Tình yêu này được Thiên Chúa tỏ bày trước tiên qua công trình tạo dựng của Ngài. Sách Sáng Thế đã tường thuật “Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh của Người. Người đã tạo dựng người nam và người nữ. Thiên Chúa thấy điều Người làm điều đó tốt và rất tốt St 1, 27. 31. Việc tạo dựng giống hình ảnh của Ngài chính là giống bản tính Ngài, một bản tính được thánh Gioan minh định Thiên Chúa là Tình yêu 1 Ga 4, 8, vì thế với hình ảnh giống Ngài, con người được mời gọi đi vào yêu thương và sự hiệp thông. Theo thần học Do thái, “vũ trụ được tạo dựng không phải để các tinh tú và các vật thể khác gia tăng trong đó, nhưng để có một không gian cho giao ước, để Thiên Chúa thể hiện tình yêu của Ngài và con người đáp lại”. Tạo dựng là để thực hiện cuộc đối thoại tình yêu của Thiên Chúa với con người, cuộc đối thoại được biểu tỏ trước tiên qua tình yêu mà người nam và người nữ tỏ bày cho nhau. 1. Hôn nhân tự nhiên Như vậy, qua việc tạo dựng con người, Thiên Chúa đã đặt để nơi người nam và người nữ một khả năng yêu thương giống như Thiên Chúa. Theo tường thuật trong sách Sáng Thế, Thiên Chúa tạo dựng nên một mình Ađam trước nhưng ông đã không tìm thấy một niềm vui, ông cảm thấy cô đơn. Thiên Chúa hiểu nỗi cô đơn đó, nên Ngài đã phải thốt lên Con người ở một mình không tốt, nên Ngài đã tạo dựng thêm Evà, và khi vừa thấy Evà, Ađam đã thể hiện một niềm vui khôn tả, đến nỗi ông đã lìa bỏ mọi sự mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt X. St 2, 18-24. Việc lìa bỏ mọi sự để tìm đến với Evà và cả hai gắn kết với nhau để nên một xương một thịt, theo Đức Bênêđictô XVI trong Thông điệp “Thiên Chúa là Tình Yêu” Deus caritas est, nói lên hai điều này “eros như được cắm rễ sâu trong bản tính của con người. Ađam luôn đi tìm và lìa cha mẹ”, để tìm người đàn bà; cả hai hợp lại mới nói lên tính trọn vẹn của con người, “cả hai trở thành một xương một thịt”. Điều thứ hai cũng quan trọng không kém ngay từ lúc sáng tạo, eros hướng con người đến hôn nhân, đến sự ràng buộc, đến sự duy nhất và dứt khoát”[1]. Quả vậy, Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người có nam có nữ và đặt để trong bản tính con người một yếu tố đặc biệt như động lực thúc đẩy họ tìm đến nhau để có thể kết hợp với nhau làm nên một thân xác, đó là yếu tố “tính dục” và là một phần làm nên tình yêu. Như vậy việc nam nữ tới tuổi trưởng thành thể hiện tình yêu dành cho nhau nó thuộc về bản chất, do đó, chẳng ai có quyền ngăn cản tình yêu. Bởi thế, Giáo Hội luôn tỏ lòng tôn trọng các cuộc hôn nhân tự nhiên hợp pháp. Cũng nên biết rằng, khi thiết lập định chế hôn nhân, Thiên Chúa ghi dấu ấn vào trong định chế này mang đặc tính đơn hôn và vĩnh hôn, như Công Đồng Triđentinô đã tuyên tín “Mọi hôn nhân hợp pháp do luật tự nhiên và thiên định đều vĩnh viễn và bất khả phân ly”, điều đó có nghĩa hôn nhân của những lương dân nếu không có ngăn trở theo luật tự nhiên và thiên luật thì được coi là hợp pháp. Quả thật, “Đấng Tạo Hóa đã thiết lập và ban những quy luật riêng cho cộng đồng của sự sống và tình yêu đầy thân mật giữa đôi vợ chồng. Cuộc sống chung đó được gầy dựng do giao ước hôn nhân, nghĩa là do sự ưng thuận không thể rút lại của từng cá nhân. Như thế, bởi một hành vi nhân linh, trong đó, hai vợ chồng tự hiến cho nhau và đón nhận nhau, nhờ sự an bài của Thiên Chúa, phát sinh một định chế vững chắc có giá trị ngay cả đối với xã hội. Vì lợi ích của lứa đôi, của con cái và của xã hội, mối dây liên kết linh thiêng này không thể đặt dưới sự phân xử tùy tiện của con người” GS số 48. 2. Hôn nhân bí tích Câu hỏi được đặt ra là vậy tại sao Giáo hội lại không cho người Công giáo kết hôn với người ngoài Công giáo? Nói không cho là hoàn toàn sai. Như đã nói Giáo hội luôn tôn trọng tình yêu giữa người nam và người nữ, Giáo hội tôn trọng sự tự do trong tình yêu và không bao giờ đưa ra một sự kỳ thị nào về tôn giáo, màu da, ngôn ngữ... Tuy nhiên, Giáo hội cũng ý thức về trách vụ của mình là phải chăm lo thiện ích cho con cái của mình, nhất là thiện ích về sự sống đời đời, sự sống mà Chúa Kitô đã hứa ban tặng cho những ai tin vào Người. Và vì thế, sự sống đời đời có một giá trị cao hơn các giá trị khác. Do đó, để giúp con cái của mình luôn trung thành với đức tin hầu có thể đạt tới sự sống đời đời, Giáo hội đồng ý cho phép con cái của mình kết hôn với người ngoài Giáo hội với một số điều kiện. Chung quy các điều kiện đó liên quan đến đời sống đức tin của người Công giáo, sự cho phép này theo thuật ngữ chuyên môn gọi là phép “chuẩn hôn phối”. Để hiểu rõ tại sao phải chuẩn hôn phối cho người Công giáo khi kết hôn với người ngoài Công giáo, trước tiên chúng ta nói về mầu nhiệm Giáo Hội. Giáo hội là một cộng đoàn được Chúa quy tụ trong đức tin. Qua Bí tích Rửa tội, người tín hữu được trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, và được tháp nhập vào thân thể huyền nhiệm của Người, tức Giáo hội, nói như thánh Phaolô Tông đồ “Cũng như trong một thân thể, chúng ta có nhiều bộ phận, mà các bộ phận không có cùng một chức năng, thì chúng ta cũng vậy tuy nhiều nhưng chỉ là một thân thể trong Đức Kitô, mỗi người liên đới với những người khác như những bộ phận của một thân thể” Rm 12,4-5. Như vậy, khi được tháp nhập vào thân mình huyền nhiệm này, tất cả mọi Kitô hữu không ai là người đơn lẻ trong Giáo hội, nhưng mọi người đều có sự hiệp thông và hiệp nhất tất cả đều có tương quan với các người khác và tất cả đều đồng quy về việc làm thành một thân thể sống động duy nhất, gắn liền với Chúa Kitô một cách sâu xa. Chúng ta hãy nhớ rõ điều này “là thành phần của Giáo hội có nghĩa là kết hiệp với Chúa Kitô và nhận được từ Người sự sống thiên linh khiến cho chúng ta sống như kitô hữu”[2]. Chính trong sự hiệp thông này Giáo hội được nhìn như một cộng đoàn đức ái, một cộng đoàn với dáng vẻ của một thục nữ và được gọi là hiền thê của Chúa Kitô. Hình ảnh Giáo hội như là Hiền Thê của Chúa Kitô được Công đồng Vat. II trình bày trong hiến chế Lumen Gentium “Giáo hội... được mô tả như hiền thê tinh tuyền của Con chiên không tì ố, được Chúa Kitô yêu mến và hiến thân để thánh hóa', được Người kết hợp bằng một giao ước bất khả phân ly được nuôi dưỡng và săn sóc' không ngừng. Sau khi thanh tẩy hiền thê, Chúa Kitô muốn hiền thê ấy kết hợp và vâng phục mình trong tình yêu và trung tín ” LG số 6. Khi trình bày hình ảnh Hiền thê, Công đồng Vat. II diễn tả đến mối tương quan đối đương giữa Chúa Kitô và Giáo hội được xây dựng trên tình yêu, mà thánh Phaolô trình bày như là tình yêu hôn nhân vợ chồng x. Ep 5, 21 - 32. Trong thư gởi tín hữu Êphêsô Thánh Phaolô đã trình bày mối tương giao giữa Chúa Giêsu và Giáo hội là mối tương giao trong tình nghĩa vợ chồng x. Ep 5, 21 - 33. Qua đó Thánh Tông đồ đã trình bày Chúa Giêsu như vị Hôn thê của Giáo hội, đã yêu thương Giáo hội như người bạn trăm năm. Qua mối tương giao Chồng - Vợ, Thánh Phaolô đã khám phá chiều kích hiệp thông nên một “thân mình” giữa Chúa Kitô và Giáo hội “…người ta nuôi nấng và chăm sóc thân xác mình, cũng như Đức Kitô nuôi nấng và chăm sóc Giáo hội, vì chúng ta là một trong thân thể của Người. Sách Thánh có lời chép rằng “Chính vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Kitô và Giáo hội” Ep 5, 29 - 32. Quả thật “Chúa Kitô yêu thương Giáo hội như hiền thê Người, Người trở thành gương mẫu của người chồng yêu thương vợ mình như yêu chính bản thân x. Ep 5, 25 - 28” x. LG số 7. Hiểu Giáo hội như thế, chúng ta mới nhận ra rằng, mỗi một Kitô hữu đều thuộc về dung mạo Hiền Thê Chúa Kitô, dung mạo đó được biểu lộ trong suốt đời sống của người Kitô hữu, cho nên việc kết hôn của người Kitô hữu không phải là một việc làm mang tính cá nhân, một công việc thuần tính tự nhiên, nhưng tự bản chất đó là công việc của Hội thánh, bởi mỗi tín hữu là một chi thể của Nhiệm thể Chúa Kitô, kết nên hình ảnh Hiền Thê của Người. Vì là công việc thuộc về Giáo hội, nên việc kết hôn của người tín hữu phải thực sự diễn tả trọn vẹn huyền nhiệm mà mình thuộc về, đó là huyền nhiệm yêu thương giữa Chúa Kitô và Hội thánh. Bởi thế, việc kết hôn của người Kitô hữu phải thể hiện tính bí tích, đó là điều mà Giáo luật nói tới “Giữa những người đã chịu phép rửa tội, không thể có khế ước hôn phối hữu hiệu nếu đồng thời không phải là bí tích”[3]. 3. Hôn phối giữa người Công giáo và không Công giáo Vì là bí tích, nên việc kết hôn phải được cử hành giữa hai người đã được rửa tội, vì người không được rửa tội thì không có khả năng trao bí tích. Bởi bí tích hôn phối không đơn giản là một nghi lễ mang tính hình thức bên ngoài, không phải chỉ là một khế ước giữa người với người, nhưng đây còn là dấu chỉ thánh nhằm hướng tới một thực tại thánh thiêng, một thực tại trình bày lý do tại sao Giáo hội hiện hữu, đó là thực tại về một tình yêu vô cùng lớn lao mà Chúa Giêsu Kitô dành cho Giáo hội, nhờ tình yêu này, mà con người được quy tụ vào trong cung lòng của Giáo hội, nơi mà mọi người nhận được ơn cứu độ. Vì thế, sự kết hợp của vợ chồng trong hôn nhân diễn tả sự kết hợp giữa Chúa Kitô và Hội thánh. Sự hy sinh của vợ chồng dành cho nhau là hình ảnh sự hy sinh của Chúa dành cho Giáo Hội. Công đồng Vat. II đã nói đến hiệu quả mà bí tích hôn nhân mang lại 1 Khi hai người yêu nhau muốn được Thiên Chúa chúc phúc cho họ, thì Bí tích hai người ban cho nhau, cũng sẽ đem lại cho họ ân sủng và phúc lành của Chúa. 2 Đối với người Công giáo, hôn nhân còn là môi trường giúp cho họ cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa dành cho họ một cách cụ thể qua tình yêu của người yêu. Nói cách khác, trong tình yêu hôn nhân họ cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa dành cho họ một cách cụ thể Họ dễ dàng xác tín rằng Thiên Chúa yêu thương họ tha thiết trong vòng tay của người yêu. Tình yêu trong hôn nhân như thế chính là hình ảnh tình yêu của Chúa dành cho con người. GS, số 48. Vì thế, bí tích hôn phối không phải chỉ được cử hành một lần trong nghi thức Phụng vụ, mà còn cần phải được cử hành mỗi ngày một cách cụ thể trong đời sống thường ngày giữa hai vợ chồng bằng cách tận hiến cho Chúa và hy sinh cho nhau. Như thế, Bí tích Hôn phối là một phần thuộc thực tại cứu độ bao la của Thiên Chúa dành cho loài người qua sự tử nạn và phục sinh của Đức Kitô, Con yêu dấu của Ngài. Vì là dấu chỉ bí tích nên việc kết hôn của người Kitô hữu phải được thực hiện giữa hai người đã được rửa tội như đã trình bày ở trên. Tuy nhiên, tình yêu có bao giờ lại bị giới hạn trong một quy định, một giới luật! Đã là con người, cho dẫu xấu như Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao cũng khao khát yêu và được yêu, thì có gì có thể ngăn cản tình yêu nảy nở giữa hai người khi đã bị tiếng sét ái tình đánh gục! Bởi đó Giáo Hội cũng luôn rộng lòng tạo điều kiện cho con cái của mình được thành hôn với những người chưa được rửa tội nếu họ yêu nhau, như đã nói, Giáo hội tạo điều kiện qua phép chuẩn. Phép chuẩn này cho phép người Kitô hữu được kết hôn với lương dân mà không vi phạm luật về bí tích Hôn phối. Việc cho phép này tạo điều kiện cho người tín hữu sau khi kết hôn được tiếp tục thi hành đời sống đức tin Công giáo của mình, cụ thể là được lãnh bí tích Hoà Giải và bí tích Thánh Thể, được tham dự cách tích cực vào các công việc mục vụ trong Giáo hội. Phép chuẩn hôn phối được ban do Đấng bản quyền địa phương. Theo Giáo luật khoản 1125 Nếu có lý do chính đáng và hợp lý, Bản quyền sở tại có thể ban phép ấy; tuy nhiên, đừng nên ban phép khi chưa hội đủ những điều kiện sau đây a. Bên Công giáo phải tuyên bố sẵn sàng xa tránh mọi nguy cơ làm tổn thất Đức tin, và hứa thành thật sẽ làm hết mọi sự có thể để con cái được rửa tội và giáo dục trong Giáo hội Công giáo. b. Vào lúc thuận lợi, phải cho bên kia biết những lời hứa mà người Công giáo phải giữ, để chính họ được thực sự ý thức về lời hứa và bổn phận của bên Công giáo. c. Cả hai bên phải được giáo huấn về các mục đích và đặc tính cốt yếu của hôn phối, và không bên nào được loại bỏ các điều ấy. Việc chuẩn như thế để thấy một mặt Giáo hội luôn tôn trọng tình yêu đôi lứa, đàng khác Giáo hội cũng không quên nhiệm vụ chính yếu của mình là luôn hướng dẫn con cái luôn đặt giá trị của ơn cứu chuộc lên hàng đầu. Việc kết hôn giữa một người Công giáo và lương dân không làm thành Bí tích Hôn phối, nhưng đặc tính hôn nhân vẫn có giá trị trọn vẹn, đó là bất khả phân ly và một vợ một chồng, và buộc hai bên phải tuân giữ, vì những đặc tính này không do bí tích Hôn phối mang lại, nhưng là do Thiên Chúa thiết định khi Ngài thiết lập định chế hôn nhân. 4. Những thách đố Trong khi đề cao tình yêu nam nữ và ban phép chuẩn cho các cuộc tình không cùng niềm tin Kitô giáo được tiến tới hôn nhân một cách hợp pháp, Giáo hội cũng nhắc nhở con cái của mình đừng quên rằng, trong cuộc sống gia đình, trước mặt còn đối diện với nhiều thách đố a- Về tính bền vững của hôn nhân Cha ông Việt Nam ta có câu “Thuận vợ thuận chồng tát biển Đông cũng cạn”, để nói lên tầm quan trọng của sự thuận thảo trong gia đình, nhất là giữa vợ chồng. Kiểu ông nói gà bà nói vịt thì gia đình không thể nào đạt tới sự thiện ích của nó. Việc thuận vợ thuận chồng không chỉ gói gọn trong các quyết định chỉ liên quan đến những thực tại trần thế như việc đầu tư, việc chọn vợ gả chồng cho con, việc giáo dục con cai... Nhưng còn có một thực tại quan trọng hơn nhiều đó là đời sống tâm linh. Quả thật, đời sống gia đình không luôn luôn là con đường trải đầy hoa hồng, nhưng có thể nói, vợ chồng luôn đối diện với bao thách đố của cuộc đời, bao là bão tố, bao là lo toan. Đứng trước những thách đố, vợ chồng cảm thấy như bất lực, mệt mỏi, chính niềm tin tôn giáo như là chiếc phao cứu sinh. Thế nhưng trong hoàn cảnh niềm tin tôn giáo không cùng song hành với hai vợ chồng thì quả thật đây là vấn đề nan giải. Chẳng hạn ngày Chúa nhật người Công giáo muốn đi lễ để thi hành trọn vẹn đời sống đức tin của mình, nhưng người không Công giáo lại có kế hoạch đưa cả gia đình đi chơi, hạt giống bất hòa bắt đầu được gieo; hay là những nan giải trong việc thờ cúng giỗ chạp giữa các tôn giáo, làm sao phận làm dâu, làm rể có thể chu tất mà không đi ngược lại với đức tin Công giáo? Rồi việc con cái có được rửa tội hay không theo điều đã cam kết?... Vô số vấn đề nảy sinh giữa hai niềm tin khác nhau trong đời sống vợ chồng, và thật là khó nghĩ khi hai người kết hợp nên một thân mình, nhưng trong thân mình đó lại đối kháng với nhau về niềm tin tôn giáo. Kết quả của sự đối kháng đó là sự bất hòa làm cho đời sống vợ chồng nên nặng nề, nảy sinh bao nhiêu là cuộc cãi vã và rồi sự thuỷ chung của đời sống vợ chồng từ từ gãy đổ. b- Về đời sống đức tin của người Công giáo Cho dẫu trong tờ cam kết xin chuẩn hôn phối bên Công giáo hứa sẽ trung thành trong đời sống đức tin, bên không Công giáo cam kết tôn trọng và tạo mọi điều kiện để bên Công giáo sống trọn vẹn với niềm tin của mình. Cam kết là thế, nhưng trong thực tế nhiều đôi hôn phối đã huỷ lời cam kết. Trong một thế giới tục hóa hôm nay, đứng trước trào lưu hưởng thụ ích kỷ, và đề cao các ngẫu tượng như tiền bạc thì quả thật đức tin của người Công giáo trong môi trường của gia đình vắng bóng gương sống đức tin của ông bà, lời nhắc nhủ của cha mẹ, đã bị lung lay và cuối cùng là sống xa lìa hẳn với đức tin Công giáo. Vâng, khi yêu nhau đôi bạn trẻ vẽ bao là mộng đẹp, nhưng khi bước vào cuộc sống hôn nhân mộng đẹp tan vỡ như giọt sương ban mai khi gặp ánh nắng mặt trời. Đức Phanxicô đưa ra lời nhận định “Chỉ khi đối diện với đời sống chung thường nhật, một cuộc sống đòi đôi vợ chồng phải hiến thân và hy sinh cho nhau, một số người mới nhận thấy mình đã không hiểu rõ hôn phối mà họ mới bắt đầu. Và họ thấy mình không thích hợp, nhất là khi phải đối chiếu với tầm mức và giá trị của hôn nhân Kitô, với những khía cạnh cụ thể, gắn liền với đặc tính bất khả phân ly của bí tích hôn phối, sự cởi mở đón nhận hồng ân sự sống và phải chung thủy với nhau”[4]. Vì thế, mục vụ cho các đôi hôn phối khác đạo luôn là nỗi trăn trở của các mục tử, mong tìm cách giúp cho đời sống gia đình của họ đạt tới hạnh phúc và thiện ích. Tuy nhiên, điều quan trọng trước tiên chính là ở nơi các bạn trẻ. Do đó, ước mong sao các bạn trẻ luôn tìm hiểu đúng đắn về người mình yêu, và nghiêm túc khi quyết định tiến tới hôn nhân với một ý thức trách nhiệm minh bạch rõ ràng. Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 115 tháng 11 & 12 năm 2019 [1] Đức Bênêđictô XVI, thông điệp Deus Caritas est, ban hành ngày 25-12-2005 tại Roma, số 11. [2] Đức Phanxicô, bài nói chuyện với khách hành hương tại Roma, ngày 19-6-2013 [3] Giáo luật Điều 1055 § 2 [4] Đức Phanxicô, bài nói chuyện vào ngày 27-9-2018 với 850 tham dự viên khóa huấn luyện về “hôn nhân và gia đình” do giáo phận Roma và tòa Thượng Thẩm Rota ở Roma tổ chức từ ngày 24 đến 26-9-2018 tại Đền thờ Thánh Gioan Laterano.

hon nhan khac dao