Phân tích tinh thần yêu nước trong bài thơ Sông núi nước Nam "Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu cả ta" (trích "Lòng yêu nước của nhân dân ta"- Hồ Chí Minh). Câu nói của Bác đã thể hiện niềm tự hào mãnh liệt về truyền thống yêu nước- sợi chỉ đỏ xuyên suốt chiều dài lịch sử. Sông núi nước Nam được coi là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc ta, khẳng định chủ quyền của đất nước và nêu cao ý chí tinh thần quyết tâm bằng mọi giá bảo vệ chủ quyền đó trước mọi kẻ thù xâm lược. 1.7. Giá trị nghệ thuật của bài thơ Bài thơ sông núi nước Nam với thể thơ thất ngôn tứ tuyệt ngắn gọn, súc tích Chủ quyền dân tộc luôn là một vấn đề nóng bỏng không chỉ của thời điểm hiện tại mà ngay cả trong những ngày quá khứ xa xưa. Sông núi nước Nam có thể coi là bản tuyên ngôn về độc lập, chủ quyền đầu tiên của dân tộc ta. Bài thơ thể hiện ý chí kiên cường và quyết tâm bảo về chủ quyền lãnh thổ của ông cha. Cổ Chiên.Câu 44: Những cơn bão lớn ở nước ta thường gây raA. sương mù.B. gió giật mạnh.C. rét đậm.D. tuyết rơi.Câu 45: Mạng lưới đô thị của nước ta hiện nayA. được phân chia thành nhiều loại.B. phân bố chủ yếu ở vùng núi cao.C. hoàn toàn do cấp tỉnh quản lí.D Giặc dữ cớ sao phạm đến đây. Chúng mày nhất định phải tan vỡ. Phân tích bài thơ Sông núi nước Nam. Cho đến nay, các nhà nghiên cứu chưa xác định ai là tác giả bài thơ. Vì bài thơ được vọng ra từ một đền thờ linh thiêng có tác dụng khích lộ quân dân ta quyết tâm Trôi dòng nước lũ hoa đông đưa". "Chiều sương ấy" là chiều thu 1947. Sương trắng phủ mờ núi rừng chiến khu chiều thu ấy in đậm hồn người; hoài niệm càng trở nên mênh mang. Chữ "ấy" câu trên bắt vần với chữ "thấy" câu dưới tạo nên một vần lưng giàu âm điệu, như một tiếng khẽ hỏi "có thấy" cất lên trong lòng. Hồn lau là hồn mùa thu. 0:00. (PLO)- Hai người dân băng qua sông Na không may ở Quảng Nam, không may bị lũ cuốn trôi mất tích. Sáng 10-10, ông Ngô Tấn Lạc, Chủ tịch UBND xã Trà Cang, huyện Nam Trà My, (Quảng Nam), cho biết trên địa bàn vừa xảy ra vụ tai nạn, hai người bị lũ cuốn trôi mất tích. Thông F6vW. nam quốc sơn hà được coi là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam. vì vậy sẽ cung cấp bài văn mẫu lớp 7 phân tích bài thơ sông núi nước Nam . Hi vọng với dàn ý và 12 bài văn mẫu lớp 7, các em học sinh sẽ có thêm nhiều ý tưởng để hoàn thiện bài văn của mình. xem chi tiết bên dưới. i. mở đầu phân tích bài sông núi nước Nam – văn mẫu 2 Chủ quyền quốc gia luôn là chủ đề nóng, không chỉ hôm nay mà ngay cả những ngày gần đây. “Sông núi nước Nam” có thể coi là bản tuyên ngôn độc lập, chủ quyền đầu tiên của dân tộc ta. bài thơ thể hiện ý chí kiên cường, quyết tâm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của tổ tiên. Có nhiều sự tích khác nhau về xuất xứ của bài hát “sông núi nước Nam” nhưng đều có một điểm chung là bài thơ ra đời gắn liền với cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm của dân tộc. vì có nhiều giả thuyết khác nhau về xuất xứ tác phẩm nên bài thơ thường bị giấu tên. “núi sông nước Nam” có thể coi là bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc, với hai nội dung chính khẳng định nền độc lập dân tộc và quyết tâm bảo vệ nền độc lập đó. Hai câu đầu khẳng định độc lập dân tộc trên cơ sở lãnh thổ và chủ quyền “Nam quốc sơn hà nam đế đích thien thủ” trước hết, về chủ quyền, Đại Việt là một quốc gia có chủ quyền của riêng mình, điều này được thể hiện rất rõ qua cụm từ “nam de do”. trong bản dịch, bài thơ dịch là “Nam vương ở”. ở đây chúng ta phải phân biệt rõ ràng giữa hoàng đế và vua, vì đây là hai khái niệm rất khác nhau. “hoàng đế” là đấng duy nhất, toàn năng, có quyền lực cao nhất; có nhiều “vua”, tùy thuộc vào hoàng đế, quyền lực đứng sau hoàng đế. do đó chữ làm khi dùng trong bài khẳng định mạnh mẽ quyền vua đối với đất nước phương nam, còn khi dùng chữ “nam đế” thì bình đẳng với “đế vương phương bắc”, độc lập tự chủ đất nước. hoàng đế của phương bắc. Về lãnh thổ, nước ta có phạm vi riêng đã được ghi rõ trong sách trời. căn cứ theo sách nước ta thì nằm ở phía nam ngũ hành thuộc địa chi của sao cánh và sao chẩn. việc dựa vào sách trời để khẳng định chủ quyền đất nước rất phù hợp với tâm lý, tín ngưỡng của người dân xưa niềm tin vào vận mệnh và số mệnh nên có sức thuyết phục mạnh mẽ hơn. đồng thời sách trời ở đây cũng tương ứng với sự thật khách quan, qua đó tác giả ngầm khẳng định nền độc lập của nước ta là sự thật khách quan, không phải ý muốn chủ quan. hai câu tiếp theo khẳng định quyết tâm bảo vệ độc lập dân tộc của nhân dân ta. trong hai câu thơ này, tác giả sử dụng từ ngữ với hàm ý xúc phạm “ngang ngược” giặc làm phản, gọi giặc là giặc. Ngoài việc vạch trần bản chất phi nghĩa của chiến tranh, tác giả còn đặt ra một câu hỏi “como ha” tại sao. vì những gì họ làm là không công bằng, trái với sự thật khách quan nên tất yếu sẽ chuốc lấy thất bại. Câu thơ cuối vừa là lời khẳng định, vừa là lời cảnh báo, cảnh báo trước sự xâm lược của chúng Hỡi quân xâm lược Đại Việt sẽ bị đánh bại hoàn toàn. Bài thơ sử dụng hình thức ngắn gọn và súc tích của thể thơ bảy chữ. tác phẩm chỉ dài hai mươi tám chữ nhưng chứa đựng những tư tưởng, tình cảm lớn lao khẳng định độc lập, chủ quyền dân tộc và thể hiện quyết tâm đấu tranh bảo vệ nền độc lập ấy. những từ ngữ súc tích, gợi cảm nam đế, chơi lỗ, như hà … kết hợp hài hoà giữa biểu cảm và biểu cảm bài thơ thiên về trình bày, nhưng ẩn sâu trong đó là những tâm tư, tình cảm, tình cảm của tác giả. giọng thơ trang trọng, hào hùng, tự tin. bài thơ ngắn gọn, súc tích nhưng không chứa đựng những tư tưởng tình cảm cao đẹp. văn bản là bản tuyên ngôn đầu tiên của dân tộc ta về độc lập, chủ quyền của Tổ quốc. tác phẩm đã tạo nên niềm tin và sức mạnh chính nghĩa cho nhân dân ta trong cuộc trường kỳ kháng chiến của dân tộc. phân tích bài Sông núi nước Nam – bài văn mẫu 3 Được coi là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam, bài thơ Thần Nam quốc sơn hà của Thủ tướng Lý Thường Kiệt đã trở thành bài thơ bất hủ. Bài thơ không chỉ khẳng định những vấn đề về lãnh thổ, chủ quyền, độc lập của dân tộc Việt Nam mà còn thể hiện tinh thần quật cường, lòng tự hào dân tộc mạnh mẽ của vị tướng tài ba cũng như dân tộc Việt Nam nói chung. bài thơ cũng là lời khẳng định lời tuyên bố mạnh mẽ của tác giả đối với những kẻ có ý đồ xâm phạm lãnh thổ ấy, tấn công vào lòng tự hào của một dân tộc anh hùng. Trong cuộc chiến đấu chống quân của quân dân Đại Việt, Tể tướng Lý Thường Kiệt đã đọc bài thơ “Nam quốc sơn hà” ở đền thờ hai vị thần Trương Hồng và Trương Hát. họ là hai vị thần của dòng sông như mặt trăng. khi bài thơ thần này vang lên trong đêm, vang lên uy nghiêm và vững chãi từ một ngôi đền thánh khiến quân lính hết sức sợ hãi, vô cùng sợ hãi, lo lắng và căng thẳng. linh khí của đối phương nhanh chóng cạn kiệt. Nhờ đó, quân và dân ta đã làm nên chiến công lẫy lừng, anh dũng sau này. ở phần đầu bài thơ, tác giả ly thường nói một cách chắc chắn và chắc chắn về vấn đề chủ quyền và biên giới lãnh thổ của dân tộc Đại Việt, đó là ranh giới đã được xác định trước, là nơi sinh sống của người Đại Việt. câu nói này không chỉ là phát biểu của tác giả, mà tác giả còn đưa ra những lý lẽ sắc bén, đó là bởi vì nó quy định “sách trời”. nghĩa là độc lập, chủ quyền trên lãnh thổ đó do trời đất quy định và chứng thực. một sự thật hiển nhiên mà không ai có thể phủ nhận “sông, núi, nước nam, nam vương biết rõ thân phận của mình trong sách trời” “Sông núi nước nam” là vật sở hữu của nam giới, cũng là hình ảnh tượng trưng không chỉ về ranh giới, chủ quyền của nam giới mà còn khẳng định vững chắc quyền tài sản của nam giới. “núi sông” đó thuộc về đàn ông. chúng ta cũng có thể thấy rằng đây là lần đầu tiên trong một tác phẩm thơ mà đề tài chủ quyền Tổ quốc được khẳng định một cách mạnh mẽ và hào sảng như vậy. không chỉ là quốc gia có chủ quyền, lãnh thổ mà quốc gia đó còn có người lãnh đạo, quản lý và làm chủ nhân dân của quốc gia đó, tức là “man king”. chủ quyền đó, lãnh thổ đó không phải do đàn ông tự lựa chọn cho mình, người dân ở đó lâu nay chỉ sinh sống và làm ăn, do định mệnh “sách trời”. “Người dân ở đó chỉ sinh sống và làm ăn, do định mệnh” ” thiên đàng “rất có giá trị và rất đáng trân trọng. “Rõ ràng” được dùng để chỉ điều hiển nhiên, khó tránh khỏi mà ai cũng có thể nhận ra và phân biệt được. “tri thiên mệnh trong sách trời” có nghĩa là lãnh thổ đó, chủ quyền của con người đã được ghi rõ ràng trong sách trời, dù muốn dù không cũng không thể chối bỏ. Vì vậy, ở hai dòng đầu của bài thơ, tác giả Lý Thường Kiệt không chỉ nêu lên một nhận định hào sảng, tự tin về lãnh thổ, biên giới quốc gia, về chủ quyền và bản lĩnh của dân tộc Đại Việt với đất nước và dân tộc của mình. , tác giả vẫn rất tỉnh táo và sắc bén khi đưa ra những lý lẽ đúng đắn, thuyết phục nhưng cũng đưa ra một chân lý mà không ai, không thế lực nào có thể phủ nhận, xác định, bác bỏ được. giọng nói hùng hồn, mạnh mẽ nhưng không giấu được niềm tự hào về chủ quyền của dân tộc mình. Bắt đầu từ việc khẳng định mạnh mẽ chủ quyền của quốc gia Đại Việt, Lý Thường Kiệt đã lớn tiếng khẳng định, cũng là lời cảnh báo cho kẻ thù, đó là kết cục bi thảm mà chúng sẽ phải đối mặt. , gây đau khổ cho người dân Đại Việt “Vì giặc đến xâm lược sẽ bị đánh chết” sự thật hiển nhiên là “phía nam sông núi” là nơi sinh sống của đàn ông, do đàn ông làm chủ. Nhưng bọn xâm lược đã không quan tâm đến những quy định cần thiết như vậy, chúng cố tình vi phạm đại việt cũng là một sự xúc phạm đến phẩm giá của đạo đức và luật trời “Tại sao giặc lại xâm lược” hành động của chúng? sự ngông cuồng và vô nghĩa của họ đáng bị chỉ trích và thậm chí trừng phạt bằng những cách thích đáng nhất. và trong bài thơ này, tác giả Lý Thường Kiệt cũng khẳng định chắc nịch cái kết thê thảm và tủi nhục cho những tên trộm nước, coi thường đạo lý “Chúng sẽ bị đánh chết”. Với tất cả sức mạnh, cũng như lòng tự tôn, chính nghĩa của dân tộc Đại Việt, quân xâm lược chỉ có một kết quả duy nhất là kết quả tất yếu là “bị đánh cho tơi bời”. như vậy, bài thơ thần “nam quốc sơn hà” là một bài thơ, một bài thơ có tư tưởng chính trị trong sáng và sâu sắc, một bản tuyên ngôn hùng hồn và mạnh mẽ của dân tộc Việt Nam. bài thơ thể hiện niềm tự hào của dân tộc Việt Nam về chủ quyền thiêng liêng của dân tộc, về sức mạnh to lớn của nhân dân trong công cuộc chống giặc ngoại xâm. phân tích sông núi phía Nam – mẫu 4 Xem thêm Top 8 mẫu tóm tắt văn bản Lão Hạc ngắn gọn – Tóm tắt Lão Hạc Bài thơ “nam quốc sơn hà” có tên chữ Hán “nam quốc sơn hà” được cho là của một kiệt tác. bài thơ đã góp phần làm nên chiến thắng của đoàn quân Bài ca trên sông như trăng. đây được coi là bản “tuyên ngôn độc lập” đầu tiên trong 3 bản tuyên ngôn của nước ta. bài thơ được làm dưới dạng một bài thơ bảy chữ. hình thức và nội dung là sự kết hợp hài hòa trong một cấu trúc bảy chữ hoàn chỉnh. bài thơ là lời khẳng định quyền độc lập của dân tộc, chủ quyền của đất nước, thể hiện quyết tâm của toàn dân tộc trong công cuộc bảo vệ độc lập dân tộc. Hai câu đầu tiên xác nhận những gì sách thiên đàng đã nói rõ ràng “núi sông phương nam, vua phương nam, trời chia đất” Câu thơ tưởng như đơn giản nhưng lại chứa đựng một lời tuyên bố hùng hồn. đơn giản vì sông, núi, hướng nam, là vua thì không còn gì để bàn cãi. tuy nhiên, các thế lực phong kiến ​​phương Bắc đã lâu không nhìn ra chân lý đó. Từ trước Công nguyên, các thế lực phong kiến ​​Trung Quốc đã sang xâm lược nước ta, coi đây như một vùng đất bỏ hoang. ly thương kiết đưa “nam de” ngang hàng với “phương bắc” trong hai câu thơ trước. đó là giá trị của bài thơ. Sự tồn tại của nước Đại Việt dưới sự làm chủ của vua Việt là điều hiển nhiên và đã được ghi rõ trong thiên sách. câu thơ sử dụng hai chữ “nam” đã làm nổi bật lên danh nghĩa đại việt và vị thế độc lập của dân tộc. Với cách diễn đạt hết sức súc tích và hùng hồn, tác giả đã tuyên bố một chân lý bất khả xâm phạm “núi sông, phương nam là nơi ở của các vị vua”. Dòng thứ hai của bài thơ càng khẳng định sự thật đã xuất hiện ở dòng đầu tiên. tác giả đã khéo léo sử dụng từ trời trong câu thơ. Tư tưởng phương Đông nói chung đề cao ý trời hơn cả mệnh lệnh của vua, vua cũng phải tuân theo mệnh lệnh của trời. Chủ quyền của Đại Việt đã được ghi danh vào sách trời và không ai có thể thay đổi được. điều này chắc chắn đã khẳng định chủ quyền của Đại Việt trước các thế lực xâm lược. Trên cơ sở khẳng định chủ quyền của đất nước, tác giả đã tố cáo dã tâm xâm lược của kẻ thù và khẳng định ý chí quật cường của dân tộc Đại Việt đối với độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia. “Tại sao kẻ thù lại đến đây? bạn phải bị hỏng ” Câu thơ tỏ ra nghi vấn nhưng thực chất là để khẳng định bản chất vô nghĩa của quân xâm lược. tiếp theo, tác giả khẳng định sự thất bại không thể tránh khỏi của quân xâm lược “ắt tan tác”. Câu thơ cuối thể hiện một niềm tin tất yếu vào lẽ phải của nhân dân ta, điều này dựa trên lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần độc lập dân tộc và truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc. phân tích bài sông núi nước Nam – văn mẫu 5 Xem Thêm Dazai Osamu Tài hoa được sinh ra từ một đời thương đau – Revelogue “Sông núi nước Nam” được coi là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của Việt Nam. bởi đó là sự khẳng định chắc chắn chủ quyền lãnh thổ của quốc gia, cũng như bảo vệ ý chí quyết tâm bảo vệ chủ quyền đó trước mọi kẻ thù. Năm 1077, đại quân do Quách Kiều chỉ huy sang xâm lược nước ta. vua lý nhân tông sai ly thường kiết hạ đem quân ngăn giặc phòng ngự non sông như trăng. Bỗng một đêm, viên quan nghe từ trong đền có hai anh em Trương Hổ và Trương Hát, hai vị tướng thiện chiến của triệu Quang Tự, được tôn là thần sông như trăng, có giọng ngâm bài thơ này “Nam quốc sơn hà nam đế cư mệnh tại thiên hạ như tráo vi xâm, hoàng đế đại bại” hai câu thơ đầu là lời khẳng định chủ quyền lãnh thổ của quốc gia, dân tộc. Trong xã hội phong kiến, tất cả lãnh thổ, của cải vật chất, dân chúng của một nước đều thuộc về vua. vua là người có quyền quyết định mọi việc, ngay cả quyền giết người. hai chữ “nam de” có nghĩa là hoàng đế của nước phương nam, từ dùng để chỉ người đứng đầu một nước, thể hiện sự bình đẳng với phương bắc. câu thơ đầu vang lên như một lời tuyên bố hùng hồn lãnh thổ phương nam phải do các đấng nam nhi tự cai quản. không dừng lại ở đó, câu thơ thứ hai tiếp tục nói lên điều trên là sự thật không thể bàn cãi, nó đã được ghi vào “book of Heaven” – sách của trời. Tư tưởng phương Đông luôn coi trọng mệnh trời. không thể phủ nhận chủ quyền của quốc gia được ghi trong sách thiên đàng. Đó là sự thật, nhưng thực tế thì khác. giặc dám đưa quân sang xâm lược nước ta. hai câu thơ tiếp theo thể hiện rõ quyết tâm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của quốc gia, dân tộc. câu hỏi tu từ được sử dụng để làm bằng chứng cho sự bất công trong cuộc chiến của nghĩa quân “sao giặc cứ sang đây xâm lược?”. những kẻ xâm lược đất nước của các dân tộc khác làm trái ý trời. đó là lý do tại sao kết quả sẽ rất khủng khiếp. kết thúc của một cuộc chiến tranh vô nghĩa là sự thất bại của kẻ thù xâm lược. đó là một sự thật đã được lịch sử chứng minh. câu thơ cuối thể hiện niềm tin vào thắng lợi tất yếu của dân tộc. đó là dựa trên lòng yêu nước và ý chí quyết tâm sâu sắc của nhân dân. Với thể thơ cô đọng, súc tích, giọng thơ khỏe, hình ảnh mang tính biểu tượng cao, “nam quốc sơn hà” xứng đáng được gọi là “bài thơ thần”. Phân tích bài Sông núi nước Nam – văn mẫu 6 “Nam quốc sơn hà” được coi là “bài thơ thần”, bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên do nội dung và nghệ thuật độc đáo. Theo nghiên cứu hiện nay, có nhiều tài khoản về sự ra đời của bài thơ. Nhưng nổi tiếng hơn cả là sự tích năm 1077, đạo quân do Quách cầm đầu đã quỳ xuống xâm lược nước ta. vua lý nhân tông sai ly thường kiết hạ đem quân ngăn giặc phòng ngự non sông như trăng. Bỗng một đêm, viên quan nghe thấy từ trong đền có hai anh em Trương Hộ và Trương Hát hai vị tướng thiện chiến trong sắc phục triệu quang được tôn là thần non sông như trăng ngâm bài thơ này. Hai dòng đầu là lời khẳng định chủ quyền lãnh thổ và quốc gia “Nam quốc sơn hà nam đế đích thien thủ” quan niệm cổ xưa cho rằng vua là “con trai của trời” con trai của trời. mọi thứ thuộc về quốc gia như đất đai, nhà cửa, của cải… mọi thứ đều thuộc về vua. người có quyền quyết định sự sống chết của nhân dân cũng chính là vua. do đó, việc khẳng định núi sông phương nam là nơi sinh sống của vua phương nam là hoàn toàn có cơ sở. mà đặc biệt hơn cả là cụm từ “nam đế” – vị hoàng đế của đất nước phương Nam. đây vốn là từ dùng để chỉ người đứng đầu một quốc gia rộng lớn. việc dùng từ trên thể hiện lòng tự hào dân tộc – nước Nam cũng là nước lớn – độc lập về chủ quyền, lãnh thổ. nếu thay bằng cụm từ nam cư sĩ sẽ mất đi ý nghĩa tự hào dân tộc. không chỉ vậy, nhà văn còn đưa ra một chân lý không thể phủ nhận “bờ vực chia trời đất nước”. chủ quyền lãnh thổ của nước ta đã được tuyên bố rõ ràng trong “the book of Heaven” – sách trời. Nó có giá trị lịch sử và pháp lý. điều này khẳng định chủ quyền lãnh thổ của dân tộc ta là chân lý không thể tranh cãi, bất di bất dịch như trong “chậu cúc họa mi”, nguyen trai từng viết “Giống như nước đại việt của chúng ta trước đây xưng là văn hiến lâu đời, nước non đã chia cắt biên giới, phong tục nam bắc cũng khác nhau; chữ, triệu, dinh, ly, tran, bao đời gây nền độc lập; cùng hán, tang, song, nhân dân tệ, mỗi bên mạnh một phương… ” Ở hai dòng cuối, người viết đã nêu lên quyết tâm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia “giống như một kẻ bất lương tấn công những kẻ bất lương” câu hỏi tu từ đặt ra như một cuộc tra vấn “tại sao địch lại tiếp tục vào đây trái phép?” để khẳng định lại chủ quyền quốc gia. cũng như lời cảnh báo rằng những kẻ xâm lược đất nước của các dân tộc khác làm trái ý trời. để rồi cuối cùng họ sẽ phải chịu một kết cục vô cùng bi thảm. những kẻ đi cướp nước cuối cùng sẽ bị “đánh cho tơi tả”. chiến thắng luôn thuộc về phe chính nghĩa. Với hình thức thơ ngắn gọn, súc tích, giọng văn cao vút và những hình ảnh mang tính biểu tượng cao, “sông núi nước Nam” đã thể hiện được ý nghĩa nội dung sâu sắc. Tóm lại, có thể đánh giá “sông núi nước Nam” xứng đáng là bản “tuyên ngôn độc lập” đầu tiên của dân tộc. bài thơ không chỉ để lại giá trị tư tưởng mà còn cả giá trị nghệ thuật. phân tích bài sông núi nước Nam – văn mẫu 7 nam quốc sơn hà là sự khẳng định tuyên ngôn độc lập và chủ quyền quốc gia một cách mạnh mẽ. đồng thời tác phẩm cũng khẳng định quyết tâm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ đó. Trong cuộc kháng chiến chống quân và dân ta, tể tướng Lý Thường Kiệt đã đọc bài thơ “Nam quốc sơn hà” tại đền thờ hai vị thần là trượng hồng, trượng hát, hai vị thần sông là Trăng. khi bài thơ thần này vang lên trong đêm, vang lên uy nghiêm và vững chãi từ một ngôi đền thánh khiến quân lính hết sức sợ hãi, vô cùng sợ hãi, lo lắng và căng thẳng. linh khí của đối phương nhanh chóng cạn kiệt. Nhờ đó, quân và dân ta đã làm nên chiến công lẫy lừng, anh dũng sau này. phần mở đầu bài thơ đã khẳng định một cách chắc chắn và mạnh mẽ về chủ quyền, giới hạn lãnh thổ của dân tộc Đại Việt, đó là giới hạn đã định sẵn, là nơi sinh sống của dân tộc Đại Việt. Việt Nam. câu nói này không chỉ là phát biểu của tác giả, mà tác giả còn đưa ra những lý lẽ sắc bén, đó là bởi vì nó quy định “sách trời”. nghĩa là độc lập, chủ quyền trên lãnh thổ đó do trời đất quy định và chứng thực. một sự thật hiển nhiên mà không ai có thể phủ nhận “sông, núi, nước nam, nam vương biết rõ thân phận của mình trong sách trời” sông núi nước Nam là vật làm chủ của đàn ông, cũng là hình ảnh tượng trưng không chỉ về biên cương, chủ quyền của đàn ông mà còn khẳng định vững chắc quyền làm chủ “non sông”. “núi” thuộc về đàn ông. chúng ta cũng có thể thấy rằng đây là lần đầu tiên trong một tác phẩm thơ mà đề tài chủ quyền Tổ quốc được khẳng định một cách mạnh mẽ và hào sảng như vậy. không chỉ là quốc gia có chủ quyền, lãnh thổ mà quốc gia đó còn có người lãnh đạo, quản trị và làm chủ nhân dân của quốc gia đó là “nam vương”. Chủ quyền đó, lãnh thổ đó, không phải do con người tự lựa chọn cho mình, người dân ở đó lâu nay chỉ sinh sống và làm ăn, do vận mệnh của “sách trời”. . “Rõ ràng” được dùng để chỉ điều hiển nhiên, khó tránh khỏi mà ai cũng có thể nhận ra và phân biệt được. “tri thiên mệnh ở sách trời” có nghĩa là lãnh thổ đó, chủ quyền của con người đã được ghi rõ ràng trong sách trời. Chính vì vậy, ở hai dòng đầu của bài thơ, tác giả Lý Thường Kiệt không chỉ đưa ra lời bình mà còn là lời khẳng định hào sảng, tin tưởng về lãnh thổ, biên giới quốc gia, chủ quyền và quyền thống trị của dân tộc Đại Việt với đất nước và dân tộc của mình, tác giả vẫn rất tỉnh táo và sắc bén khi đưa ra những lý lẽ xác đáng, thuyết phục nhưng cũng đưa ra một chân lý mà không ai, không thế lực nào có thể phủ nhận, xác định, bác bỏ được. chất giọng mạnh mẽ, hùng hồn nhưng không giấu được niềm tự hào về chủ quyền của dân tộc mình. Trên cơ sở khẳng định chủ quyền của dân tộc Đại Việt một cách mạnh mẽ, bài thơ đã khẳng định, ngoài lời cảnh báo cho kẻ thù, đây là cái kết bi thảm mà chúng sẽ phải nhận nếu biết nhưng vẫn cố tình thực hiện hành vi. của cuộc xâm lược. của lãnh thổ, gây bao đau thương cho dân tộc Đại Việt “chính vì vậy mà quân xâm lược đến xâm lược sẽ bị đánh cho tơi tả” sự thật hiển nhiên là “sông núi phía Nam” là nơi sinh sống của đàn ông và đàn ông làm chủ. Nhưng bọn xâm lược đã không quan tâm đến những quy định cần thiết như vậy, chúng cố tình vi phạm đại việt cũng là một sự xúc phạm đến phẩm giá của đạo đức và luật trời “Tại sao giặc lại xâm lược” hành động của chúng? sự ngông cuồng và vô nghĩa của họ đáng bị chỉ trích và thậm chí trừng phạt bằng những cách thích đáng nhất. và trong bài thơ này, tác giả Lý Thường Kiệt cũng khẳng định chắc nịch cái kết thê thảm và tủi nhục cho những tên trộm nước, coi thường đạo lý “Chúng sẽ bị đánh chết”. Với tất cả sức mạnh, lòng tự tôn, chính nghĩa của dân tộc Đại Việt, quân xâm lược chỉ có một kết cục, kết cục tất yếu là “bị đánh cho tơi bời”. bài thơ “Nam quốc sơn hà” là một bài thơ, một bài thơ có tư tưởng chính trị trong sáng và sâu sắc, một bản tuyên ngôn hùng hồn và hùng tráng của dân tộc Việt Nam. bài thơ thể hiện niềm tự hào của dân tộc Việt Nam về chủ quyền thiêng liêng của dân tộc, về sức mạnh to lớn của nhân dân trong công cuộc chống giặc ngoại xâm. Phân tích bài sông núi nước Nam – văn mẫu 8 vào cuối năm 1076, quân đội sang xâm lược nước ta. Dưới sự chỉ huy của Thái úy Lý Thường Kỉnh, quân nam chặn địch trên tuyến sông Cầu và đến tháng 3 năm 1077, đánh tan quân địch. Tương truyền, để khích lệ ý chí chiến đấu và làm tan rã tinh thần của quân ta, Lý Thường Kiệt đã đọc bài thơ sau vào lúc nửa đêm bên bờ sông. mở đầu bằng câu thơ khẳng định quyền độc lập, tự chủ của dân tộc “hoàng đế nam quốc sơn hà nam” sông núi ở phía nam, nơi vua ở Xem thêm Trên cơ sở nhìn nhận các yếu tố nội dung và hình thức tác phẩm Nhận diện quy trình sáng tạo tác phẩm bình luận báo in nam quoc là một quốc gia phía nam tự xưng là quốc gia sẽ xóa bỏ ấn tượng từng bị cai trị trong thời kỳ bắc thuộc. Từ thế kỷ X, nước ngoài đã đánh đuổi quân Hán phương Nam vào sông Bạch Đăng, lập nên nhà nước độc lập tự chủ, nhưng bọn phong kiến ​​phương Bắc vẫn coi nước ta là quận lỵ, họ đặt dinh Bộ Chỉ là quan. chỉ vua của quận. nên cùng với thời gian, danh xưng nam quốc và nam đế có một ý nghĩa lịch sử đặc biệt. Câu thơ nhấn mạnh một chân lý giản dị, hiển nhiên nhưng đầy chiều sâu lịch sử sau mười thế kỷ đấu tranh của dân tộc ta, thể hiện tinh thần độc lập tự chủ, tinh thần bình đẳng dân tộc. p> “thiên mệnh tại thiên” biên giới được viết rõ ràng trong sách thiên đàng đương nhiên là hiển nhiên, hắn có một đạo lý chính đáng không thể lay chuyển; số phận là một số phận đã định sẵn và không bị xáo trộn. quyền chủ quyền của vua nam trên trái đất là điều đã được viết trong sách thiên đàng. vận mệnh của đất nước phương Nam có lãnh thổ riêng của mình, đó là điều tuyệt đối, một sự thật hiển nhiên. Nếu câu thơ thứ nhất nhấn mạnh chân lý do con người quyết định, thì câu thơ thứ hai mang tính chất thần thánh, niềm tin gần như tuyệt đối vào thời phong kiến, ý thơ như một điềm báo thắng thua giữa ta và địch. Chúng ta sẽ chiến thắng không chỉ bằng sức riêng của chúng ta, mà còn bằng ý chí của Đức Chúa Trời. kẻ thù sẽ bị đánh bại bởi những hành động bất công của bạn. sự thật của nam quốc sơn hà được củng cố bởi sức mạnh siêu nhiên của số phận, để khẳng định niềm tin vào chiến thắng của chúng ta. bài thơ quyết tâm bảo vệ đất nước, khẳng định quân thù tất yếu “giống như cuộc xâm lược nguy hiểm của các giống lai lỗ?” tại sao kẻ thù lại đến xâm lược? như ha là bao, nghịch ngợm thì ngược lại, lỗ mãng dã man. đây là một câu hỏi vừa hàm ý ngạc nhiên vừa khinh bỉ. ngạc nhiên vì họ giả vờ là các tầng trời và các vì sao, nhưng trái với mệnh lệnh của các tầng trời; bị coi thường vì họ tự hào là đất nước có nền văn minh hàng đầu, là người Trung Hoa, là tinh hoa của muôn dân, đó là lý do họ hành động như những kẻ man rợ, dựa dẫm vào kẻ yếu. Lập trường của chúng tôi là vững chắc chúng tôi giữ gìn biên giới, chúng tôi bảo vệ đất nước với đầy đủ chính nghĩa, công lý rõ ràng. bọn họ là kẻ thù nghịch, trái ý trời, làm những chuyện ngang ngược hơn cả. giọng thơ hùng hồn, vừa mạnh dạn tố cáo dã tâm của kẻ thù, vừa lăng mạ, bôi nhọ quân xâm lược với tư thế của một kẻ bề trên đang nắm quyền trong tay, mắng nhiếc kẻ tham lam ngu xuẩn, đê hèn. “kẻ xấu xuất sắc ngang bằng” chúng tôi sẽ chấp nhận thất bại và thiệt hại đẳng cấp bây giờ cũng vậy, khán giả xem, phòng ngự là nhận, thua là phá, thua, hư không nhìn, chẳng đi đến đâu. câu thơ là câu trả lời, nhưng nó không trả lời trực tiếp, thay vào đó dự đoán số phận của họ khi thua trận một cách suôn sẻ. câu cuối tiếp nối câu của ba câu trước. không thể hiểu được chân tướng, cũng không hiểu được trời đất, dẫn quân đi xâm lược đất nước của thiên hạ, bay thấy bại, nhục nhã tán gia bại sản. Bài thơ khẳng định quyền độc lập, tự quyết của dân tộc ta từ ngàn đời nay. Quyền độc lập, tự túc này được phát triển cụ thể trong Tuyên ngôn Độc lập vĩ đại của Nguyễn Trãi Mỗi bên có quyền một bên … và trong Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh Nước Việt Nam có quyền. . được hưởng tự do và độc lập … truyền thống lịch sử đó quyết định một chân lý dân tộc ta luôn chống giặc ngoại xâm để bảo vệ nền độc lập tự chủ, tự cường. Phong kiến ​​phương Bắc đã mười lăm lần xâm lược nước ta, gần đây là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, nhưng cuối cùng chúng cũng thất bại và bị đuổi khỏi đất nước. trên thực tế, tinh thần quật khởi chống xâm lược đó được phát huy từ tinh thần của vị hoàng đế nam quốc sơn hà. Phân tích bài Sông núi nước Nam – văn mẫu 9 Bài thơ “Nam quốc sơn hà” tương truyền là bài thơ trữ tình gắn liền với chiến công của quân và dân Đại Việt trước quân xâm lược. “sông, núi, nước, nam vương ở mệnh trời trong, sao giặc ngoại xâm? sẽ bị đánh đập ” Hai câu thơ đầu nói về sông núi nước Nam, đất nước Việt Nam nơi nam đế cư ngụ Nam vương cư ngụ. hai từ nam từ bắc; nam đế ở một bên, không phải là thuộc hạ của triều đình. Nam vương là người đại diện cho quyền và lợi ích tối cao của đất nước và nhân dân ta. sông núi phía nam thuộc chủ quyền của nam đế, có thành thăng long, có căn cứ địa vững chắc và độc lập. Không chỉ vậy, núi sông phương nam đã được định đoạt, được khai thiên trong sách trời, đã được sách trời phân chia, nghĩa là có lãnh thổ, giới hạn và biên giới riêng. Hai chữ sách trời sách của trời trong câu thơ thứ hai gợi lên màu sắc thiêng liêng với niềm tin mãnh liệt trong lòng người. câu hát vang lên như một tuyên bố về chủ quyền thiêng liêng của Đại Việt “sông, núi, nước nam, nam vương biết rõ vận mệnh của mình trong sách trời” hoàng đế nam quốc sơn hà nam, thiên mệnh tại thien thu từ đó nhận thức và niềm tin về sông núi nước Nam, lý thương yêu đã lên án hành động xâm lược gian ác và tham vọng bành trướng phi nghĩa của kẻ thù. Những âm mưu và hành động xâm lược của các ngươi đã đi ngược lại ý muốn của Đức Chúa Trời và xúc phạm đến quốc gia của chúng ta. câu hỏi lên án kẻ thù vang lên đanh thép và tức giận “tại sao quân xâm lược lại đến xâm lược?” Xem Thêm Tiểu sử nhà văn Nguyễn Tuân – Trường THPT Thành Phố Sóc Trăng làm thế nào để chuyển? Người anh hùng dân tộc đã nghiêm khắc cảnh báo quân xâm lược phương bắc và chỉ ra rằng chúng sẽ bị nhân dân ta đánh cho tơi tả, sẽ phải chịu một thất bại nhục nhã “sẽ bị đánh bại” Các cụm từ 3, 4 với giọng thơ hùng hồn, mạnh mẽ đã thể hiện tinh thần đoàn kết, chiến đấu của nhân dân ta quyết đánh đuổi quân xâm lược bằng những đòn quyết tử để bảo vệ non sông, núi non nước Nam. chiến thắng sông cau năm 1076 là minh chứng hùng hồn cho ý thơ trên. triệu tiết, quỳ quách cùng hơn binh sĩ đã bị quân dân Đại Việt đánh bại và bị loại khỏi trần gian. nam quốc sơn hà là bài ca yêu nước chống xâm lược. Bài thơ khẳng định chủ quyền dân tộc và ca ngợi lực lượng chiến đấu bảo vệ đất nước của Đại Việt. Với nội dung đó, bài thơ Nam quốc sơn hà có ý nghĩa lịch sử như một bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam. phân tích bài sông núi nước Nam – văn mẫu 10 Trong hơn một nghìn năm Bắc thuộc, nhân dân ta đã phải sống trong tâm trạng khao khát, khát vọng có được cuộc sống tự do hạnh phúc. vì vậy chúng ta có thể tưởng tượng hạnh phúc sẽ lớn lên biết bao nhiêu khi đất nước Đại Việt của chúng ta có chủ quyền, tự do và độc lập. lịch sử đã ghi lại điều đó, nhưng trong văn học, phải đến gần trăm năm sau, khi bài thơ Nam quốc sơn hà ra đời, chúng ta mới chính thức tuyên bố chủ quyền và ý chí tự cường của dân tộc mình. bài thơ từ đó đã vang vọng qua hàng nghìn năm lịch sử “nam quốc sơn hà nam đế đích cư ở thien thủ, bội bạc ác báo” nguyên tác bài thơ được coi là của tướng quân thương thuyết, một người con của đất Thăng Long. tuy nhiên, cho đến ngày nay, câu trả lời cho câu hỏi ai là tác giả của bài thơ vẫn còn bỏ ngỏ. Tôi chỉ biết rằng bài thơ ra đời khi cuộc giao tranh giữa quân ta và quân đô hộ đang diễn ra ác liệt. Bài thơ được xướng lên tại Đình Trường Hồng, Trường Hát đã trở thành lời động viên ý chí quyết tâm của nghĩa quân tiến lên diệt giặc. lời thơ mở đầu trang trọng và vô cùng hàm súc “núi, sông, nước, nam vương sống trên trời chia đất” câu thơ khẳng định một chân lý bất di bất dịch rằng “sông núi nước Nam” là nơi cư ngụ của con người. từ cư trong nguyên tác không chỉ được hiểu là sinh mệnh, mà còn phải nói là nam vương đại vương có quyền thống trị chính quyền. ở vùng đất này, hoàng đế phương nam không thua kém hoàng đế phương bắc. nước có vua nghĩa là nước đó có độc lập và chủ quyền. Ngoài ra, chủ quyền sông núi nước Nam đã được sách thần xác định rõ ràng. là sự thật khách quan, những gì trên đã thuận theo ý trời, những gì ở dưới không ai thay đổi được, hai câu thơ là lời khẳng định mạnh mẽ ý chí, niềm tin vào độc lập, chủ quyền và về tinh thần của quốc gia tự cường của đất nước đại việt chúng ta. có thể nói hai câu thơ đầu đã tiếp thêm lòng căm thù và quyết tâm cho bản tuyên ngôn sau “Tại sao kẻ thù lại đến đây? bạn phải bị hỏng ” Cuộc xâm lược man rợ và tàn bạo của kẻ thù nhất định đi ngược lại đường lối của trời. những việc làm như vậy là vô nghĩa nên chắc chắn sẽ bị đánh bại. “… nếu hai câu thơ đầu là lời khẳng định chân lý về độc lập, chủ quyền thì hai câu thơ sau là lời khẳng định chân lý về độc lập, chủ quyền. khẳng định niềm tin là chiến thắng, có được niềm tin đó bởi chúng ta có tinh thần đoàn kết, truyền thống yêu nước lâu đời, có ngọn cờ chính nghĩa và chúng ta cũng có những người con ưu tú, anh hùng luôn chiến đấu mưu lược, dũng cảm trong các cuộc chiến tranh để bảo vệ và giữ gìn sự trường tồn. của đất nước và quê hương. nam quốc sơn hà là một bài thơ ngắn gọn, sắc sảo gồm bảy chữ. nó xứng đáng là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên thể hiện lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đồng thời thể hiện ý chí, sức mạnh và tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam. phân tích sông núi phía Nam – mẫu 11 Khi nhắc đến bản tuyên ngôn độc lập của nước ta, chúng ta thường nghĩ đến bản tuyên ngôn độc lập được đọc tại quảng trường Ba Đình ngày 2 tháng 9 năm 1945. Nhưng trước đó đã có một số tác phẩm mang dấu ấn và tính chất của bản tuyên ngôn. Sự độc lập. và trong đó không thể không kể đến bài thơ thần nam quốc sơn hà. “Nam quốc sơn hà nam đế cư nhiên được thiên mệnh làm phản trắc phi từ ho lai? kẻ xấu đã bị đánh bại ” Xem thêm Thương vợ – nội dung, dàn ý phân tích, bố cục, tóm tắt Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt gồm bảy chữ, viết bằng chữ Hán. bài thơ không có tiêu đề. Cái tên “nam quốc sơn hà” được các nhà soạn thơ đặt cho một tuyển tập thơ văn dựa trên bốn chữ đầu của bài thơ. bài thơ nam quốc sơn hà có ít nhất 35 phiên bản sách và 8 phiên bản thần thoại. bài thơ này lần đầu tiên được ghi trong các sách như Việt điện u linh tập, nhưng bản nam quốc sơn hà trong Việt điện u linh tập không phải là bản hay nhất được ghi chép trong sách đại sử việt văn toàn thư mới là phiên bản phổ biến nhất. Đại việt sử ký toàn thư được biết đến là chính truyện đầu tiên ghi lại bài thơ này. nam quốc sơn hà được sáng tác vào năm nào? Phân tích nam quốc sơn hà, ta thấy bài thơ ra đời trong hoàn cảnh lịch sử đặc biệt của đất nước. Cuối năm 1076, nhà Tống có ý đồ xâm lược Đại Việt. vua tông phái quân sang xâm lược nước ta. Tuy là một nước nhỏ nhưng chúng ta kiên quyết không để mất nước, quân dân đoàn kết chống giặc ngoại xâm. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Thái úy Lý Thường Kiệt, quân ta đã chặn đánh địch ở tuyến sông cầu và đến tháng 3 năm 1077, quân ta đã đánh tan quân địch. Hiện vẫn chưa rõ tác giả của bài thơ này. nhưng giả thuyết được chấp nhận nhiều nhất cho rằng bài thơ là một kiệt tác. Tương truyền, để cổ vũ, động viên ý chí chiến đấu của quân ta cũng như làm tan rã tinh thần quân thù, Lý Thường Kiệt đã phải nửa đêm đọc bài thơ trên bờ sông Cầu. lời ca ấy vang xa khắp thiên hạ, khiến nghĩa quân tin rằng trời đất phù hộ cho cuộc kháng chiến và đây là một tín hiệu đáng mừng, lòng dân được củng cố, tinh thần thăng hoa. tướng quân thường hết thời cơ đó, liền cho quân vượt sông, bày trận quyết định tấn công, chủ động tấn công vào doanh trại địch. Một phần vì yếu tố bất ngờ, một phần vì tinh thần chiến đấu của quân đội Việt Nam đang lên cao, quân hộ tống còn yếu, số chết và bị thương quá nửa. quân bại trận. lee thường đi trước đón đầu nên không tiếp tục tấn công mà lập tức cử người đến cầu an, mở đường cho quân rút về nước, chiếm lại giang sơn, giữ vững lãnh thổ đại việt. Khẳng định chủ quyền đất nước, phân định lãnh thổ rõ ràng là những ý chính của câu thơ đầu bài Anh hùng xạ điêu. mở đầu bài thơ là câu thơ mạnh mẽ khẳng định quyền độc lập, tự chủ của dân tộc “hoàng đế nam quốc sơn hà nam” sông núi ở phía nam, nơi vua ở “quốc gia phía nam” ở đây dùng để chỉ quốc gia phía nam, nhằm mục đích xác định rõ ràng ranh giới của đất nước. danh hiệu “vương quốc phương nam” đã thể hiện rõ vị thế vững chắc của đất nước. Vì một ngàn cuộc Bắc thuộc đã kết thúc khi Ngô Quyền đại bại quân Nam Hán ở sông Bạch Đằng, nên nhà cầm quyền Trung Hoa vẫn chỉ coi nước ta là một quận, huyện chỉ thuộc về Trung Hoa. do đó, câu nói “nam quốc” có một ý nghĩa đặc biệt. câu thơ ngắt nhịp 4/3, tách thành hai đoạn “sông núi nước Nam”, “vua phương nam”. hai mặt này có quan hệ mật thiết với nhau. ý thức về không gian lãnh thổ của quốc gia là quan trọng, nhưng việc xác định quyền sở hữu đối với lãnh thổ đó còn quan trọng hơn. tương ứng với “nam quoc” là “nam de”. Trong quan niệm của người Trung Quốc, chỉ có vua của Trung Quốc mới xứng đáng là hoàng đế, là con trời, còn các quốc gia khác chỉ dám xưng vương, không có một nước nhỏ nào dám xưng đế như người Trung Quốc. . chỉ có nước ta khẳng định mạnh mẽ rằng ta và Trung Quốc là hai nước độc lập, có quyền bình đẳng. và nước phương nam thuộc về người dân nước nam, do vua phương nam đại diện. Trong một dòng thơ ngắn, hai từ “nam tính” dường như không chỉ tạo nhịp điệu cho câu thơ mà còn khẳng định ý thức chủ quyền mãnh liệt. Nhìn vào Nam quốc sơn hà ta có thể thấy so với Đại cáo ngô đồng của Nguyễn Trãi xác định chủ quyền trên nhiều phương diện hơn. “cũng giống như nước đại, ta đã xưng đế từ lâu, núi sông chia cắt nam bắc. Phong tục cũng khác triệu, định, ly, trần, bao đời gây độc lập với han, tang. và tong., mỗi bên đều xưng vương, tuy mạnh yếu tùy thời, nhưng mỗi thế hệ đều có một kiệt tác ” trong bài thơ này, tuy “thần” vừa xác định vừa khẳng định chủ quyền lãnh thổ chưa thấu đáo nhưng điều đó không làm giảm ý nghĩa của bài thơ. cơ sở để xác định chủ quyền quốc gia qua câu thứ hai. để xác định chủ quyền của đất nước, ly thuong kiet đã đưa ra những cơ sở sau “không may tại mệnh trời”. biên giới được viết rõ ràng trong sách thiên đàng “tất nhiên” là hiển nhiên, tất nhiên, nó có một đạo đức chính đáng mà không ai có thể thay đổi hoặc phủ nhận. và “số phận” là để định đoạt các bên. và trong trường hợp này “thiên mệnh” ở đây là chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc thiêng liêng. nếu para nguyen trai dựa trên lịch sử, thì ly thuong kiet dựa trên thien thu. chủ quyền của nam vương đối với đất nước là điều đã được ghi trong sách trời. “thiên thu” là sách trời, chính sách thần thánh đã định mệnh cho đất nước phương Nam có biên giới riêng. là luật, không thể phủ nhận một điều hiển nhiên về chủ quyền của đất nước. nếu câu đầu tiên đưa ra một tuyên bố, thì câu tiếp theo là một bằng chứng. tuy cơ sở xét xử và xác định có phần duy tâm, nhưng cần phải xem lại bối cảnh lịch sử đương thời để hiểu rõ hơn. Người xưa tin rằng mọi sinh vật, cuộc sống của con người đều do bàn tay tạo hóa sắp đặt. con người không được phép vượt quyền của đấng tạo hóa, vì vậy hành động xâm phạm biên giới của quốc gia khác không chỉ là sự xúc phạm đến quốc gia đó, mà còn là sự xúc phạm đối với thần linh. chính vì đã định rõ đất nước của đấng nam nhi, cho nên giặc ngoại xâm đã vi phạm thiên mệnh, nên nhất định sẽ thất bại. sự khẳng định mạnh mẽ và sự tức giận sâu sắc đối với kẻ thù. Chúng ta có thể thấy rằng từ việc khẳng định chủ quyền đất nước, Người đã lên án và khẳng định ý chí quyết tâm đánh giặc của quân dân Đại Việt. “giống như cuộc xâm lược nguy hiểm của các giống lai lỗ?” tại sao kẻ thù lại đến xâm lược? “like ha” có nghĩa là như thế nào, “pseudo” có nghĩa là ngược lại, “lỗ” có nghĩa là man rợ. ở đây “lỗ” chỉ kẻ xâm lược. chúng giống như những kẻ man rợ khi chúng xâm chiếm lãnh thổ của chúng ta. Cuộc xâm lược không chỉ đe dọa hòa bình, độc lập của dân tộc mà còn chà đạp đất đai, gây bao đau thương cho nhân dân, nước mắt căm thù trào ra khắp đất nước. Đây là một câu hỏi tu từ chứa đựng cả sự ngạc nhiên và khinh bỉ. thật đáng kinh ngạc tại sao tòa thiên đình, tự xưng là con trời, con trời lại dám làm trái ý trời và can thiệp vào sự luân chuyển của sinh vật. khinh thường là vì một quốc gia tự cho mình ở vị trí cao hơn các quốc gia khác phần lớn dựa vào ức hiếp kẻ yếu, xâm chiếm lãnh thổ của nước nhỏ hơn trong khi nước ta vẫn cống hiến để duy trì các mối quan hệ. Đó là lý do tại sao chúng tôi bảo vệ chủ quyền của đất nước chúng tôi là một hành động chính nghĩa phù hợp với ý chí của nhân dân, đó là lý do tại sao chúng tôi chiến đấu với một tâm trí vững chắc. Chúng ta bảo vệ đất nước mà tổ tiên chúng ta đã xây dựng từ bao đời nay, chúng ta bảo vệ cuộc sống của người nghèo, chúng ta bảo vệ công lý … Ngược lại là giặc ngoại xâm, chúng xâm lược với những mục đích phi pháp nên đây là cuộc xâm lăng vô nghĩa nhằm thỏa mãn nhu cầu quyền lực và tham vọng bá quyền. họ đã phạm nhiều tội ác không được trời đất tha thứ. chính vì tham vọng của kẻ thù và chính ta là kẻ nắm quyền trong tay nên giọng thơ trong sáng, hào sảng. phân tích Nam quốc sơn hà sẽ thấy nhà thơ đã nhận thức rõ tâm trạng và mục đích của hai cuộc kháng chiến nên đã có những vần thơ hùng tráng và hào hùng. <3 bạn sẽ đón nhận thất bại “nhu dang” là đại từ ngôi thứ hai có nghĩa là một nhóm người, “khan” là cách đọc khác dành cho khán giả. và “thủ” là nhận, “thua” là thua, “hư” nghĩa là chẳng đi đến đâu. câu thơ cuối xác lập một cách chắc chắn kết quả của cuộc chiến. kết quả đó không phải là viển vông hay ảo ảnh mà là sự kết hợp của nhiều yếu tố. Đó là về mục đích của cuộc chiến tranh, về chính nghĩa của cuộc kháng chiến và cả về truyền thống bất khuất chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta. quân ta có thể ít về quân số, không có vũ khí chiến đấu, đây có thể là cuộc chiến không cân sức, tương quan lực lượng sâu, nhưng điều quan trọng nhất là ngọn cờ chính nghĩa đã đứng về phía ta. . cũng bởi lòng yêu nước nồng nàn, sâu sắc của mỗi người dân Việt Nam đã kết nối tạo thành nguồn sức mạnh to lớn giúp nước ta chiến thắng bao cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa của quân phi nghĩa phương Bắc. . quân xâm lược phương bắc không hiểu chân lý, không hiểu lẽ ​​trời, nhưng lại bị lòng tham làm cho mù quáng. nếu họ đến xâm lược mà không có lý do, kết quả sẽ là trắng tay, nhục nhã chịu thất bại và trở về nước. Bài thơ đã khẳng định chủ quyền và quyết tâm đánh giặc ngoại xâm của đất nước ta. truyền thống lịch sử đã xác lập một chân lý rằng, từ bao đời nay dân tộc ta luôn đứng về phía chính nghĩa, giơ cao cánh tay phải chống lại mọi cuộc chiến tranh ngoại xâm. mục đích đó và truyền thống anh hùng ấy đã được tiếp nối qua nhiều thế hệ để luôn giữ vững hòa bình dân tộc. sau này không chỉ có quân xâm lược phương bắc mà còn là thực dân Pháp, Nhật, Mỹ. chiến tranh ngày càng ác liệt nhưng phần thắng vẫn thuộc về chúng ta vì chúng ta chiến đấu để bảo vệ sông núi. giọng hát mạnh mẽ và hào hùng ấy sẽ luôn vang xa. xuyên suốt bài thơ, không một chút sợ hãi trước cường quyền của triều đại phương bắc mà luôn giữ vững niềm tin tất thắng. Ta cũng thấy được tâm thế ấy ở hũ ngô, tướng quân,… tuy xét về tính hoàn chỉnh, bài thơ có thể chưa nhìn bao quát được những khía cạnh chưa vạch rõ tội ác của kẻ thù. thiên nhiên và giọng điệu của bài thơ sẽ luôn ngân vang với dòng sông. Chỉ với hai mươi tám chữ ngắn gọn, súc tích, bài thơ đã truyền tải một ý chí phi thường và một sức mạnh to lớn về ý thức chủ quyền lãnh thổ, về tinh thần bất khuất của dân tộc ta. bài thơ kết thúc, nhưng những suy nghĩ ấy vẫn còn mãi với thời gian. đó là cuộc sống của tác phẩm… phân tích bài sông núi nước Nam – văn mẫu 12 bài thơ nam quốc sơn hà là lời khẳng định mạnh mẽ về chủ quyền lãnh thổ của dân tộc, cũng như quyết tâm bảo vệ chủ quyền trước mọi kẻ thù “Nam quốc sơn hà nam đế, tự nhiên là thiên mệnh. như phản bội xâm lược, kẻ thống trị xứng đáng bị đánh bại.” Khi nói đến sự ra đời của bài thơ, có rất nhiều truyền thuyết. Nhưng nổi tiếng nhất là vào năm 1077, khi đoàn quân do Quách cầm đầu quỳ xuống xâm lược nước ta. vua lý nhân tông sai ly thường kiết hạ đem quân ngăn giặc phòng ngự non sông như trăng. Bỗng một đêm, viên quan nghe từ trong miếu truyền rằng hai anh em Trương Hộ và Trương Hát, hai vị tướng thiện chiến trong sắc phục triệu quang được tôn là thần sông như trăng, cất giọng ngâm thơ này. . Theo quan niệm của xã hội cổ đại, tất cả lãnh thổ, của cải vật chất và nhân dân của một quốc gia đều thuộc về nhà vua. rằng anh ta có quyền quyết định mọi thứ, thậm chí cả quyền giết người. việc sử dụng từ “hoàng đế của phương nam” để chỉ người đứng đầu một quốc gia – thể hiện sự bình đẳng với phương bắc. câu thơ thứ hai vẫn là một lời khẳng định. hình ảnh “the book of Heaven” có nghĩa là cuốn sách của thiên đường. lãnh thổ và lãnh thổ của đất nước được ghi tên vào sách thiên đàng. Điều đó khẳng định chủ quyền lãnh thổ của dân tộc ta là sự thật không thể chối cãi và không thể thay đổi. Với câu nói đó, hai câu thơ tiếp theo tiếp tục khẳng định quyết tâm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc. câu hỏi tu từ “như tréo ngoe lỗ lai xâm?” Như một lời cảnh báo, cảnh báo quân xâm lược xâm phạm lãnh thổ là trái ý trời. và từ đó, câu thơ cuối cùng ngân vang đanh thép. những kẻ xâm lược và cướp nước từ các dân tộc khác sẽ không có kết cục tốt đẹp. giọng thơ trong sáng, hùng hồn, đanh thép thể hiện quyết tâm bảo vệ độc lập dân tộc. “Nam quốc sơn hà” được coi là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam. bài thơ đã thể hiện tinh thần yêu nước cũng như ý chí quyết tâm bảo vệ của nhân dân ta trước mọi kẻ xâm lược. Bạn đang tìm kiếm tài liệu tham khảo để phân tích bài thơ Sông núi nước Nam? Đọc Tài Liệu giới thiệu đến các bạn dàn ý chi tiết và một số bài văn mẫu hay với đề tài phân tích tác phẩm Sông núi nước Nam của Lí Thường Kiệt ngay sau đây. Cùng tham khảo ngay nhé !Hướng dẫn phân tích bài thơ Sông núi nước Nam Lí Thường KiệtDàn ý phân tích bài Sông núi nước Nam1. Mở bài phân tích Sông núi nước Nam- Giới thiệu khái quát về tác giả Lí Thường Kiệt và bài thơ “Sông núi nước Nam” hoàn cảnh ra đời, khái quát giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật,…2. Thân bài phân tích Sông núi nước Nama Hai câu thơ đầu Lời khẳng định chủ quyền của đất nước- Nam đế hoàng đế nước Nam – ngang hàng với hoàng đế các nước phương Bắc, qua đó thể hiện lòng tự hào dân tộc- Thiên thư sách trời - Giới phận lãnh thổ của người Nam được quy định ở sách trời, điều này trở thành chân lý không thể chối cãi và không bất cứ ai có thể thay đổi được điều đó với người Việt và người Trung tôn thờ thế giới tâm linh, thì trời chính là chân lý⇒ Khẳng định niềm tin, ý chí về chủ quyền dân tộc, tinh thần tự lập, tự chủ, tự cường của dân tộcb Hai câu thơ còn lại- Quyết tâm bảo vệ nền độc lập, chủ quyền của dân tộc- Kết cấu câu hỏi nhằm mục đích khẳng định nền độc lập dân tộc, khẳng định niềm tin chiến thắng của dân tộc ta- Tác giả chỉ rõ, những kẻ xâm lược là trái đạo trời, đạo làm người - “nghịch lỗ”- Cảnh cáo bọn giặc dã tất sẽ thất bại không chỉ vì trái đạo trời mà còn vì dân tộc ta sẽ quyết tâm đánh đuổi, bảo vệ chủ quyền đất nước đến Kết bài phân tích Sông núi nước Nam- Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ+ Nội dung khẳng định chủ quyền của dân tộc và ý chí quyết tâm bảo vệ chủ quyền ấy trước mọi kẻ thù xâm lược+ Nghệ thuật thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, giọng thơ hùng hồn, đanh thép,..Xem lại nội dung phần soạn bài Sông núi nước Nam ngắn gọn và đủ ý nhấtTop 3 bài văn mẫu hay phân tích Sông núi nước Nam tuyển chọnPhân tích Sông núi nước Nam bài số 1Sông núi nước Nam là lời khẳng định tuyên bố đanh thép của tác giảĐược xem là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam, bài thơ thần “Nam quốc sơn hà” của chủ tướng Lí Thường Kiệt đã trở thành một áng thơ văn bất hủ, không chỉ khẳng định được vấn đề về lãnh thổ, chủ quyền, độc lập của dân tộc Việt Nam, mà bài thơ còn thể hiện được tính thần lực, tự tôn dân tộc mãnh mẽ của vị chủ tướng tài ba Lí Thường Kiệt cũng như những người dân Việt Nam nói chung. Bài thơ cũng là lời khẳng định tuyên bố đanh thép của tác giả đối với những kẻ có ý định xâm lăng vào lãnh thổ ấy, xâm phạm vào lòng tự tôn của một dân tộc anh cuộc chiến đấu chống quân Tống của quân dân Đại Việt, chủ tướng Lí Thường Kiệt đã đọc bài thơ thần “Nam quốc sơn hà” ở đền thờ hai vị thần Trương Hống, Trương Hát - hai vị thần của sông Như Nguyệt. Khi bài thơ thần này vang lên vào thời điểm đêm khuya, lại được vọng ra hùng tráng, đanh thép từ một ngôi đền thiêng liêng nên đã làm cho quân Tống vô cùng khiếp sợ, chúng đã vô cùng hoảng loạn, lo lắng, nhuệ khí của quân giặc bị suy giảm một cách nhanh chóng. Cũng nhờ đó mà quân dân ta có thể tạo ra một chiến thắng lừng lẫy, oai hùng sau đầu bài thơ, tác giả Lí Thường Kiệt đã khẳng định một cách chắc chắn, mạnh mẽ về vấn đề chủ quyền, ranh giới lãnh thổ của dân tộc Đại Việt, đó là ranh giới đã được định sẵn, là nơi sinh sống của người dân Đại Việt. Lời khẳng định này không phải chỉ là lời khẳng định của tác giả, mà tác giả còn đưa ra những luận chứng sắc sảo, đó là bởi “sách trời” quy định. Tức sự độc lập, chủ quyền về lãnh thổ ấy được trời đất quy định, chứng giám. Một sự thật hiển nhiên mà không một ai có thể chối cãi được“Sông núi nước Nam vua Nam ởRành rành định phận ở sách trời”Sông núi nước Nam là những vật thuộc quyền sở hữu của người Nam, cũng là những hình ảnh biểu tượng không chỉ cho ranh giới, chủ quyền của người nam mà còn khẳng định một cách chắc chắn quyền sở hữu của “sông núi” ấy là của người Nam. Chúng ta cũng có thể thấy đây là lần đầu tiên trong một tác phẩm thơ văn mà vấn đề chủ quyền dân tộc được khẳng định mạnh mẽ, hào sảng đến như vậy. Không chỉ là dân tộc có chủ quyền, có lãnh thổ mà dân tộc ấy còn có người đứng đầu, người quản lí, làm chủ người dân của quốc gia ấy, đó chính là “vua Nam”. Chủ quyền ấy, lãnh thổ cương vực ấy không phải do người Nam tự quyết định lựa chọn cho mình, người dân nơi ấy chỉ sinh sống, làm ăn sinh hoạt từ rất lâu đời, do sự định phận của “sách trời”, đó là đấng cao quý vì vậy mọi sự quy định, chỉ dẫn của “trời” đều rất có giá trị, đều rất đáng trân trọng.“Rành rành” là dùng để chỉ sự hiển hiện, tất yếu mà ai cũng có thể nhận biết cũng phân biệt được. “Rành rành định phận ở sách trời” có nghĩa vùng lãnh thổ ấy, chủ quyền ấy của người Nam đã được sách trời ghi chép rõ ràng, dù có muốn cũng không thể chối cãi, phủ định. Như vậy, ở hai câu thơ đầu, tác giả Lí Thường Kiệt không chỉ đưa ra luận điểm là lời khẳng định hào sảng, chắc chắn về vùng lãnh thổ, ranh giới quốc gia và chủ quyền, quyền làm chủ của nhân dân Đại Việt với quốc gia, dân tộc mình mà tác gỉ còn rất tỉnh táo, sắc sảo khi đưa ra những luận cứ đúng đắn, giàu sức thuyết phục mà còn đưa ra một sự thật mà không một kẻ nào, một thế lực nào có thể phủ định, bác bỏ được nó. Giọng văn hào hùng, mạnh mẽ nhưng không giấu được niềm tự hào của bản thân Lí Thường Kiệt về chủ quyền của dân tộc sự khẳng định mạnh mẽ vấn đề chủ quyền của dân tộc Đại Việt, Lí Thường Kiệt đã lớn tiếng khẳng định, cũng là lời cảnh cáo đến kẻ thù, đó chính là cái kết cục đầy bi thảm mà chúng sẽ phải đón nhận nếu biết nhưng vẫn cố tình thực hiện hành động xâm lăng lãnh thổ, gây đau khổ cho nhân dân Đại Việt“Cớ sao lũ giặc sang xâm phạmChúng bay sẽ bị đánh cho tơi bời”Sự thật hiển nhiên rằng, “Sông núi nước Nam” là do người Nam ở, người Nam làm chủ. Nhưng lũ giặc không hề màng đến sự quy định mang tính tất yếu ấy, chúng cố tình xâm phạm Đại Việt cũng là xúc phạm đến sự tôn nghiêm của đạo lí, của luật trời “Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm” hành động ngông cuồng, phi nghĩa này của bọn chúng thật đáng bị phê phán, thậm chí đáng để trừng phạt bằng những hình thức thích đáng nhất. Và ở trong bài thơ này, tác giả Lí Thường Kiệt cũng đã đanh thép khẳng định cái kết cục đầy bi đát, ê chề cho lũ cướp nước, coi thường đạo lí “Chúng bay sẽ bị đánh cho tơi bời”. Với tất cả sức mạnh cũng như lòng tự tôn, tính chính nghĩa của dân tộc Đại Việt thì lũ xâm lăng chỉ có một kết cục duy nhất, một kết quả không thể tránh khỏi “bị đánh cho tơi bời”.Như vậy, bài thơ thần “Nam quốc sơn hà” là một bài thơ, một bài thơ mang chính chính luận rõ ràng, sâu sắc, một bản tuyên ngôn hùng hồn, mạnh mẽ của dân tộc Việt Nam. Bài thơ thể hiện lòng tự hào của người Việt Nam về chủ quyền thiêng liêng của dân tộc, về sức mạnh vĩ đại của người dân trong công cuộc đánh đuổi ngoại thêm một số bài văn mẫu Sông núi nước Nam hayNội dung và nghệ thuật bài Sông núi nước NamDàn ý chi tiết phân tích bài thơ Sông núi nước NamPhân tích bài thơ Sông núi nước Nam bài số 2Phân tích Sông núi nước Nam chính là phân tích ý chí kiên cường và quyết tâm bảo về chủ quyền lãnh thổChủ quyền dân tộc luôn là một vấn đề nóng bỏng không chỉ của thời điểm hiện tại mà ngay cả trong những ngày quá khứ xa xưa. Sông núi nước Nam có thể coi là bản tuyên ngôn về độc lập, chủ quyền đầu tiên của dân tộc ta. Bài thơ thể hiện ý chí kiên cường và quyết tâm bảo về chủ quyền lãnh thổ của ông xuất xứ của bài Sông núi nước Nam có rất nhiều ghi chép khác nhau, nhưng chúng đều có điểm chung đó là bài thơ ra đời gắn liền với cuộc kháng chiến chống quân xâm lược của dân tộc. Vì có nhiều giả thuyết khác nhau về sự ra đời của tác phẩm nên bài thơ thường được để khuyết danh. Sông núi nước Nam có thể coi là bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc, mang hai nội dung lớn khẳng định độc lập dân tộc và ý chí quyết tâm bảo vệ nền độc lập câu đầu khẳng định độc lập dân tộc trên cở sở cương vực lãnh thổ và chủ quyềnNam quốc sơn hà nam đế cưTiệt nhiên định phận tại thiên hết về chủ quyền, Đại Việt là đất nước có chủ quyền riêng, điều này được thể hiện rõ qua cụm từ “Nam đế cư”. Trong phần dịch thơ được dịch là “vua Nam ở”. Ở đây chúng ta cần có sự phân biệt rạch ròi giữa đế và vua, vì đây là hai khái niệm rất khác nhau. Đế là duy nhất, toàn quyền, có quyền lực cao nhất; Vua thì có nhiều, phụ thuộc vào đế, quyền lực xếp sau đế. Bởi vậy, khi sử dụng chữ "đế" trong bài đã khẳng định mạnh mẽ quyền của vua Nam với nước Nam, đồng thời khi sử dụng “Nam đế” thì mới sánh ngang hàng với “Bắc đế”, độc lập và không phụ thuộc vào Bắc cương vực lãnh thổ, nước ta có cương vực riêng đã được quy định ở sách trời. Căn cứ vào thiên thư nước ta nằm ở phía nam núi Ngũ Lĩnh thuộc địa phận sao Dực và sao Chẩn. Dựa vào sách trời để khẳng định chủ quyền của đất nước rất phù hợp với tâm lí, niềm tin của con người ngày xưa tin vào số phận, mệnh trời bởi vậy càng có sức thuyết phục mạnh mẽ hơn. Đồng thời sách trời ở đây cũng tương ứng với chân lí khách quan, qua đó tác giả cũng ngầm khẳng định sự độc lập của đất nước ta là chân lí khách quan chứ không phải ý muốn chủ câu sau khẳng định quyết tâm bảo vệ độc lập dân tộc của nhân dân ta. Trong hai câu thơ này tác giả sử dụng những từ ngữ mang ý nghĩa kinh miệt “nghịch lỗ” - lũ giặc làm điều trái ngược, để gọi những kẻ đi xâm lược. Ngoài ra để vạch trần tính chất phi nghĩa cuộc chiến tranh, tác giả còn đưa ra hình thức câu hỏi “như hà” cớ sao. Bởi điều chúng làm là phi nghĩa, đi ngược lại chân lí khách quan nên tất yếu sẽ chuốc lại bại vong. Câu thơ cuối vừa có tính chất khẳng định, vừa như là lời răn đe, cảnh báo trước hành động xâm lược của chúng các người sẽ chuốc lấy bại vong hoàn toàn khi xâm lược Đại thơ sử dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt hàm súc và cô đọng. Tác phẩm chỉ có 28 chữ nhưng lại ẩn chứa những tư tưởng và tình cảm lớn khẳng định độc lập chủ quyền dân tộc và nêu lên quyết tâm chiến đấu bảo vệ nền độc lập đó. Ngôn từ cô đọng, giàu sức gợi cảm nam đế cư, nghịch lỗ, như hà,… Kết hợp hài hòa giữa biểu cảm và biểu ý bài thơ thiên về nghị luận trình bày nhưng ẩn sâu bên trong là những tư tưởng, tình cảm, cảm xúc của tác giả. Giọng thơ trang trọng, hào hùng, đầy tự thơ ngắn gọn, hàm súc mà chưa đựng những tư tưởng tình cảm lớn lao, cao đẹp. Văn bản là bản tuyên ngôn đầu tiên của dân tộc ta về độc lập, chủ quyền của đất nước. Tác phẩm đã tạo niềm tin, sức mạnh chính nghĩa cho nhân dân ta trong cuộc kháng chiến trường kì của dân tích Sông núi nước Nam ngắn nhất bài số 3Sông núi nước Nam - Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước taBài thơ Sông núi nước Nam có tên chữ Hán là "Nam quốc sơn hà" được coi là của Lí Thường Kiệt sáng tác. Bài thơ ra đời sau chiến thắng của quân ta trước quân Tông trên dòng sông Như Nguyệt do Lí Thường Kiệt lãnh đạo. Chúng ta xem bài thơ này là bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên trong ba bản tuyên ngôn của nước thơ được làm theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. Hình thức và nội dung của bài thơ là sự kết hợp hài hòa trong một kết cấu hoàn chỉnh của thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. Bài thơ chính là lời khẳng định quyền độc lập của dân tộc, chủ quyền của đất nước và thể hiện quyết tâm của toàn dân tộc trong việc bảo vệ nền độc lập dân câu đầu khẳng định điều mà sách trời đã ghi rõSông núi nước Nam vua Nam ởVàng vặc sách trời chia xứ thơ tưởng chừng như đơn giản nhưng chứa đựng một lời tuyên bố hùng hồn. Đơn giản vì Sông núi nước Nam vua Nam ở, không có gì phải bàn cãi. Vậy mà lâu nay các thế lực phong kiến phương Bắc không nhìn thấy chân lí ấy. Từ trước Công nguyên, các thế lực phong kiến Trung Hoa đã đem quân xâm chiếm nước ta, coi nước ta như một vùng đất vô chủ. Lí Thường Kiệt đã đem Nam đế đặt ngang hàng với Bắc đế trong hai câu thơ trên. Đó chính là giá trị của câu thơ. Sự tồn tại của đất nước Đại Việt thuộc quyền sở hữu của vua Việt là điều hiển nhiên và đã được sách trời ghi rõ. Câu thơ dùng hai chữ Nam đã làm nổi bật danh hiệu Đại Việt và tư thế độc lập của dân tộc. Với cách diễn đạt thật cô đọng, hùng hồn, tác giả đã tuyên bố một chân lí không thể thay đổi Sông núi nước Nam vua Nam thơ thứ hai trong bài thơ giúp khẳng định thêm chân lí đã xuất hiện trong câu thứ nhất. Tác giả đã khéo sử dụng từ "trời" trong câu thơ. Tư tưởng phương Đông nói chung đề cao mệnh của ý trời còn cao hơn cả lệnh vua, vua cũng phải tuân theo mệnh trời. Chủ quyền của Đại Việt được sách trời ghi thì không ai có thể thay đổi được. Điều này đã khẳng định chắc chắn chủ quyền của Đại Việt trước các thế lực xâm sự khẳng định chủ quyền của đất nước, tác giả đã tố cáo hành động xâm lược của kẻ thù, đồng thời khẳng định ý chí vì độc lập dân tộc, vì chủ quyền đất nước của nhân dân Đại dữ cớ sao phạm đến đâyChúng mày nhất định phải tan thơ được diễn đạt theo lối nghi vấn nhưng thực chất là để khẳng định tính chất phi nghĩa trong việc xâm lược của quân Tông. Tiếp đến, tác giả khẳng định thất bại tất yếu của những kẻ đi xâm lược chúng mày nhất định phải tan thơ cuối cùng thể hiện một niềm tin tất thắng vào tính chính nghĩa của nhân dân ta, điều này dựa trên cơ sở của lòng yêu nước nồng nàn, của tinh thần vì độc lập dân tộc và truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân thêm Cảm nghĩ về bài thơ Sông núi nước Nam-/-Trên đây là nội dung chi tiết dàn ý và một số bài văn mẫu phân tích bài Sông núi nước Nam ngữ văn lớp 7 do Đoc tài liệu tuyển chọn, mong rằng sẽ giúp các em có được bài văn phân tích của riêng mình tốt nhất. Với tác phẩm Sông núi nước Nam thì kể cả với đề tài phân tích hay cảm nhận thì các em đều nên tham khảo dàn ý chi tiết dưới đây để đưa ra luận điểm cho bài văn của mình để đảm bảo tính thống nhất cũng như chặt chẽ cho bài văn nhéDàn ý phân tích Sông núi nước Nam chi tiếtI. Mở bài- Giới thiệu đôi nét về tác giả Lí Thường Kiệt những nét chính- Tương truyền bài Sông núi nước Namthường gọi là Thơ thần được Lí Thường Kiệt sáng tác vào khoảng cuối năm 1076, trong một trận chiến đấu ác liệt chống quân Tống xâm Bài thơ là lời động viên tướng sĩ hăng hái giết giặc, vừa là tuyên ngôn đanh thép cảnh cáo, làm lung lay ý chí kẻ Thân bài*Chủ quyền độc lập, tự do của nước Nam là chân lí không gì thay đổi được.+ Câu thứ nhất Nam quốc sơn hà Nam đế cư Sông núi nước Nam vua Nam ở.- Khái niệm vua Nam vào thời bấy giờ đồng nhất với khái niệm dân tộc. Vua đại diện cho quốc gia, dân Xưng danh Nam quốc nước Nam là tác giả có chủ ý gạt bỏ thái độ miệt thị từ trước tới nay của các triều đình phong kiến phương Bắc Bắc quốc đối với nước ta, coi nước Nam chỉ là chư Khẳng định tư thế bình đẳng, độc lập về chính trị của nước ta bằng thái độ kiêu hãnh, tự hào Nam quốc, Nam đế.+ Câu thứ hai Tiệt nhiên định phận tại thiên thư Vằng vặc sách trời chia xứ sở.- Nhấn mạnh vào chủ quyền của nước Nam đã được ghi rõ trong sách trời Thiên thư. Trời đã phân định cho nước Nam bờ cõi riêng. Câu thơ nhuốm màu sắc thần linh thiêng liêng khiến cho chân lí về chủ quyền độc lập của nước Nam càng tăng thêm giá trị.+ Câu thứ ba Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Giặc dữ cớ sao phạm đến đây?- Thái độ của tác giả là căm giận và khinh bỉ gọi quân xâm lược là nghịch lỗ, tức lũ giặc ngạo ngược, làm trái đạo trời, đạo Ngạc nhiên trước việc một nước lớn tự xưng là thiên triều mà lại dám phạm tới lệnh trời.+ Câu thứ tư Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư Chúng mày nhất định phải tan vỡ- Cảnh cáo quân xâm lược rằng làm trái đạo trời thì tất yếu sẽ chuốc lấy thất bại thảm hại. Đó là quy luật không thể tránh Thể hiện niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh chính nghĩa của quân và dân nước Nam sẽ đánh tan quân thù, bảo vệ chủ quyền độc lập, tự do của Tổ Kết bài- Trong hoàn cảnh chiến đấu ác liệt đã trở thành nguồn sức mạnh tinh thần to lớn, động viên quân ta anh dũng chiến đấu và chiến Bài thơ ra đời đã gần ngàn năm nhưng ý nghĩa to lớn, sâu sắc của nó vẫn còn nguyên vẹn, xứng đáng là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước đây là dàn ý phân tích bài thơ Sông núi nước Nam chi tiết từng câu, các em có thể tham khảo văn mẫu 7 phân tích Sông núi nước Nam để hoàn thiện bài văn của khảo thêm Soạn bài Sông núi nước NamVăn mẫu phân tích Sông núi nước Nam mở bài gián tiếpBia đá chùa Linh Xứng ở huyện Hà Trung thuộc tỉnh Thanh Hóa sau ngót ngàn năm, nét chữ khắc trên đá “vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt” gửi gắm tấm lòng nhân dân ta đội ơn sâu người anh hùng “bạt Tống” để cứu nước giải phóng dân tộc“Lí Công nước Việt Noi dấu tiền nhânCầm quân tất thắngTrị nước yên dânDanh lừng trung hạTiếng nức gần xa”.Lí Công là Lí Thường Kiệt, người con vĩ đại của Thăng Long nghìn năm văn vật, tác giả bài thơ Nam quốc sơn hà bất hủ. Lí Thường Kiệt là danh tướng thời nhà Lí, tên tuổi gắn liền với chiến thắng Sông Cầu - Như Nguyệt để chống giặc. Trong giờ phút giao tranh ác liệt, ông viết bài thơ Sông núi nước Nam để khích lệ và động viên tướng sĩ quyết chiến thắng giặc Tông. Bài thơ nói lên niềm tự hào về chủ quyền của dân tộc, nêu cao ý chí tự lực tự cường của nhân dân ta“Sông núi nước Nam vua Nam ởVằng vặc sách trời chia xứ sở Giặc dữ cớ sao phạm đến đây,Chúng mày nhất định phải tan vỡ”.Hai câu thơ đầu, ngôn ngữ trang trọng, ý thơ mạnh mẽ, đanh thép, khẳng định một chân lí lịch sử bất di bất dịch “Sông núi nước Nam” - nước Đại Việt thân yêu của nhân dân ta là “nơi vua Nam ở”. Theo quan điểm lúc bấy giờ thì vua tượng trưng cho quyền lực tối thượng và đại diện cho quyền lợi tối cao của cộng đồng dân tộc. Nước ta đã có vua, nghĩa là có người làm chủ. Nam đế có thua kém gì Bắc đế. Nước có vua là có chủ quyền, có nền độc lập. Không những thế, giới phận đó đã được định rõ ở sách trời. Đó là một chân lí lịch sử khách quan không ai có thể chối cãi được. Bài thơ nói đến “Nam đế” nói đến “thiên thư” và “định phận” để khẳng định một niềm tin, một ý chí về chủ quyền quốc gia, về tinh thần tự lập, tự cường dân tộc“Sông núi nước Nam vua Nam ởVằng vặc sách trời chia xứ sở”.Có thể nói, đó là một lời tuyên ngôn về chủ quyền và nền độc lập của Đại Việt. Mọi niềm tin đều cho ta sức mạnh. Trước họa xâm lăng của ngoại bang, niềm tin về độc lập và chủ quyền sẽ làm bùng lên ngọn lửa yêu nước và căm thù giặc trong nhân dân ta. Hai câu tiếp theo, giọng thơ vang lên sang sảng, căm giận. Lí Thường Kiệt nghiêm khắc lên án hành động ăn cướp trắng trợn của giặc Tông. Chúng đã mang quân sang xâm chiếm nước ta. Câu hỏi tu từ làm cho lời thơ thêm đanh thép“Giặc dữ có sao phạm đến đây?"Hành động xâm lược của giặc Tông là tàn ác và phi nghĩa. Giết người, đốt phá, ăn cướp, gây ra cảnh chiến tranh điêu tàn. Chúng âm mưu biến nước ta thành quận huyện của Trung Quốc, xâm phạm tới “Nam quốc sơn hà”, làm trái với “sách Trời”. Giặc Tông nhất định sẽ bị nhân dân ta giáng cho những đòn trừng phạt đích đáng“Chúng mày nhất định phải tan vỡ”.Câu thơ khẳng định niềm tin chiến thắng. Chiến thắng vì ta có sức mạnh chính nghĩa đánh giặc để bảo vệ sông núi nước Nam. Chiến thắng vì nhân dân ta có truyền thống yêu nước, có tinh thần đoàn kết bất khuất anh hùng chống ngoại xâm. Chiến thắng vì tướng sĩ của ta mưu lược, dũng cảm đánh giặc để giữ gìn quê hương đất nước.“Nhất định phải tan vỡ” là bị đánh cho tan tác, không còn một mảnh giáp. “Nhất định phải tan vỡ” là bị thất bại nhục nhã. Thực tế lịch sử đã chứng minh hùng hồn cho câu thơ của Lí Thường Kiệt. Sông Cầu và bến đò Như Nguyệt là mồ chôn hàng vạn lũ giặc phương Bắc. Trước sự giáng trả sấm sét của quân ta, Quách Quỳ phải tháo chạy, thất bại nhục nhã. Chiến thắng Sông Cầu - Như Nguyệt là một trong những trang sử vàng chói lọi của Đại thơ Sông núi nước Nam vẫn được mệnh danh là bài thơ “thần”. Lí Thường Kiệt với tài mưu lược của một nhà quân sự văn võ song toàn đã phủ cho bài thơ một màu sắc thần linh, có tác dụng động viên tướng sĩ đánh giặc với niềm tin thiêng liêng “Sông núi nước Nam” đã được “Vằng vặc sách trời chia xứ sở”.Bài thơ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt. Giọng thơ đanh thép, căm giận, hùng hồn. Nó vừa mang sứ mệnh lịch sử như một bài hịch cứu nước, vừa mang ý nghĩa như một bản tuyên ngôn độc lập lần thứ nhất của nước Đại Việt. Bài thơ là tiếng nói yêu nước và niềm tự hào dân tộc của nhân dân ta, thể hiện ý chí và sức mạnh Việt Nam. Nam quốc sơn hà là khúc tráng ca chống xâm lăng biểu lộ khí phách và ý chí tự lực tự cường của đất nước và con người Việt đây là bài dàn ý phân tích Sông núi nước Nam chi tiết nhất do Đọc tài liệu tổng hợp, mong rằng với dàn ý này thì các em sẽ chuẩn bị cho bài văn của em một cách tốt nhất nhé! Đừng quên tham khảo thêm trọn bộ văn mẫu 7 tuyển chọn của chúng tôi nữa em nhé! Phân tích bài thơ “Sông núi nước Nam” Mở bài Nam quốc sơn hà Sông núi nước Nam là bài thơ nổi tiếng, được lưu truyền từ xư tới nay. Tương truyền, năm 1077, hơn 30 vạn quân Tống do Quách Quỳ chỉ huy xâm lược Đại Việt. Lý Thường Kiệt lập phòng tuyến tại sông Như Nguyệt sông Cầu để chặn địch. Quân của Quách Quỳ đánh đến sông Như Nguyệt thì bị chặn. Nhiều trận chiến ác liệt đã xảy ra tại đây nhưng quân Tống không sao vượt được phòng tuyến Như Nguyệt, đành đóng trại chờ viện binh. Đang đêm, có tiếng đọc bài thơ vang vọng trong đền thờ Trương Hống, Trương Hát, ở phía nam bờ sông. Nhờ thế tinh thần binh sĩ lên rất cao, đã tiến lên tiêu diệt kẻ thù. Thân bài Bài thơ chỉ với 4 câu thơ thất ngôn ngắn gọn, xúc tích nhưng có sức truyền tải lớn. Hai câu thơ đầu khẳng định mạnh mẽ chủ quyền dân tộc Nam quốc sơn hà Nam đế cư, Tiệt nhiên định phận tại thiên thư Núi sông Nam Việt vua Nam ở, Vằng vặc sách trời chia xứ sở. Sông núi nước Nam, vua Nam ở, điều đó cũng có nghĩa là ở phương Bắc thì vua Bắc ở. Đất nào vua ấy. Đó là sự hiển nhiên tất yếu không ai được xâm phạm của ai. Đó vốn là chân lí cuộc đời. Trong đời sống tinh thần của người Việt Nam và Trung Quốc. Trời là oai linh tối thượng, sắp đặt và định đoạt tất cả mọi việc ở trần gian. Cương vực lãnh thổ của vua Nam, của người Nam đã được định phận tại sách trời – có nghĩa là không ai được phép đi ngược lại đạo trời. Đó là chân lí của đất trời. Như vậy tuyên bố chủ quyền dựa trên chân lí cuộc đời, chân lí đất trời, dựa trên lẽ phải. Chủ quyền nước Nam là không thể chối cãi, không thể phụ nhận. Ở hai câu tiếp theo, tác giả nêu cao quyết tâm bảo vệ chủ quyền dân tộc, bảo vệ biên cương đất nước, khẳng định hành động phi nghĩa và thất bại tất yếu của kẻ thù Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm, Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư. Giặc dữ cớ sao phạm đến đây? Chúng mày nhất định phải tan vỡ. Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm là lời hỏi tội kẻ đã dám làm điều phi nghĩa “nghịch lỗ”, dám làm trái đạo người, đạo trời. Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời là lời cản cáo đối với kẻ phi nghĩa – gieo gió tất yếu sẽ gặp bại là điều không thể tránh khỏi đối với những kẻ xấu, tàn bạo, đồng thời đó còn là sự quyết tâm sắt đá để bạo vệ chủ quyền của đất nước đến cùng. Chính điều này đã tạo nên được niềm tin sự phấn khích để tướng sĩ xông lên diệt thù. Bố cục rất chặt chẽ giống như một bài nghị luận. Hai câu đầu nêu lên chân lí khách quan, hai câu sau nêu vấn đề có tính chất hệ quả của chân lí đó. Bài thơ tuy chủ yếu thiên về biểu ý song không phải vì thế mà trở thành một bài luận lí khô khan. Có thể nhận thấy rằng, sau cái tư tưởng độc lập chủ quyền đầy kiên quyết ấy là một cảm xúc mãnh liệt ẩn kín bên trong. Nếu không có tình cảm mãnh liệt thì chắc chắn không thể viết được những câu thơ đầy chí khí như vậy. Qua các cụm từ “tiệt nhiên” rõ ràng, dứt khoát như thế, không thể khác, “định phận tại thiên thư” định phận tại sách trời và “hành khan thủ bại hư” chắc chắn sẽ nhận lấy thất bại, chúng ta có thể nhận thấy cảm hứng triết luận của bài thơ đã được thể hiện bằng một giọng điệu hào sảng, đanh thép, đầy uy lực. Kết bài Với lời lẽ hùng hồn, lập luận chặt chẽ, đanh thép, bài thơ Sông núi nước Nam có ý nghĩa như một bản tuyên ngôn của dân tộc. Bài thơ khẳng định rõ ràng chủ quyền không thể bàn cãi của dân tộc ta và ý chí quyết tâm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và nền độc lập ấy trước mọi kẻ thù xâm lược. Cảm nhận ý nghĩa bài thơ “Nam Quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt Vì sao bài thơ “Sông núi nước Nam” được xem như bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc ta? Đề bài Phân tích bài Sông núi nước Nam. Ngữ văn 7 Bài làm Cùng với tinh thần nhân đạo thì yêu nước là chủ đề lớn của nền văn học Việt Nam. Nam quốc sơn hà là một trong những áng văn chương kiệt tác của văn học thời Lí – Trần. Nó là tác phẩm kết tinh được hào khí thời đại, cảm xúc của muôn trái tim, vì thế, nó tiêu biểu cho tinh thần độc lập, khí phách anh hùng và khát vọng lớn lao của dân tộc trong buổi đầu xây dựng một quốc gia phong kiến độc lập. Bài thơ để lại trong lòng người đọc ấn tượng sâu sắc. Sông núi nước Nam là một bài thơ chữ Hán, theo thể thất ngôn tứ tuyệt Đường luật. Nguyên tắc như sau Nam quốc sơn hà Nam quốc sơn hà Nam đế cư Tiệt nhiên định phận tại thiên thư Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư. Dịch thành Sông núi nước Nam Sông núi nước Nam vua Nam ở Vằng vặc sách trời chia xứ sở Giặc dữ cớ sao phạm đến đây Chúng bay nhất định phải tan vỡ. Theo Lê Thước – Nam Trân dịch Nam Quốc Sơn Hà – Lý Thường Kiệt Tương truyền rằng, trong cuộc kháng chiến chống Tống đời nhà Lí, một đêm tối trên phòng tuyến Như Nguyệt, từ trong đền thờ hai thần Trương Hồng và Trương Hát hai vị tướng giỏi của Triệu Quang Phục, được tôn là thần sông Như Nguyệt, bài thơ đã ngân vang lên Vì thế người ta gọi bài thơ này là thơ thần. Nhưng dù là do thần linh hay con người đọc lên thì bài thơ vẫn là khát vọng và khí phách Đại Việt. Ý tưởng bảo vệ độc lập, kiên quyết chống giặc ngoại xâm được diễn đạt trực tiếp qua một mạch lập luận khá chặt chẽ và biện chứng. Mở đầu bài thơ là lời tuyên bố đanh thép về chủ quyền đất nước Nam quốc sơn hà Nam đế cư Câu thơ 7 tiếng tạo thành hai vế đối xứng nhau nhịp nhàng Nam quốc sơn hà – Nam đế cư. Đặc biệt, cách dùng chữ của tác giả bài thư thể hiện rất “đắt” ý tưởng và cảm xúc thơ. Hai từ Nam quốc và Nam đế có thể coi là nhãn tự mắt thần của câu thơ và của cả bài thơ. Trong tư tưởng của bọn cầm quyền phong kiến Trung Quốc xưa nay-chỉ có Bắc đế, chứ không thế có Nam đế hoàng đế Trung Hoa là vị hoàng đế duy nhất của thiên hạ, thay trời trị vì thiên hạ. Trở lại với nội dung tư tưởng bao hàm qua ngôn từ của câu thơ. Nam quốc không chỉ có nghĩa là nước Nam, mà Nam quốc còn là vị thế của nước Nam ta, đất nước ấy dù nhỏ bé nhưng tồn tại độc lập, sánh vai ngang hàng với một cường quốc lớn ở phương Bắc như Trung Quốc. Hơn nữa, đất nước ấy lại có chủ quyền, có một vị hoàng đế Nam đế. Vị hoàng đế nước Nam cũng có uy quyền không kém gì các hoàng đế Trung Hoa, cũng là một bậc đế vương, do đấng tối cao phong tước, chia cho quyền cai quản một vùng đất riêng mà lập nên giang sơn xã tắc của mình Tiệt nhiên định phận tại thiên thư Sông núi nước Nam là của người Nam. Đó là sự thật hiển nhiên. Không ai có quyền phủ định? Bởi sự phân định núi sông, bờ cõi đâu phải là ý muốn chủ quan của một người hay một số người, mà do “Trời” định đoạt. Bản đồ ranh giới lãnh thổ của các quốc gia đã in dấu ấn trong sách trời Ai có thể thay đổi được? Tác giả bài thơ đã đưa ra những lí lẽ thật xác đáng. Qua cách lập luận, nổi lên một quan niệm, một chân lí thiêng liêng và cao cả chân lí về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của dân tộc Đại Việt. Vẫn những lí lẽ đanh thép ấy, tác giả khẳng định tiếp Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư. Thật là một khí phách kiên cường! Thay mặt cả dân tộc, nhà thơ đã lớn tiếng cảnh cáo bọn giặc xâm lược Chúng bay phạm vào bờ cõi này, tức là chúng bay đã phạm vào sách trời; mà phạm vào sách trời, tức là làm trái với đạo lí trở thành kẻ đại nghịch vô đạo nghịch lỗ, lẽ nào Trời đất dung tha. Mặt khác chúng bay phạm vào bờ cõi này tức là phạm vào chủ quyền thiêng liêng của một dân tộc, nhất là dân tộc đó lại là một dân tộc có bản lĩnh kiên cường, có ý chí độc lập mạnh mẽ, vậy thì, sự thất bại sẽ là điều không thể tránh khỏi, thậm chí còn bị đánh cho tơi bời thủ bại hư. Chưa bao giờ trong văn học Việt Nam lại có một khí phách hào hùng như thế! Cảm xúc thơ thật mãnh liệt, tạo nên chất trữ tình chính luận- một đặc điểm của thơ ca thời Lí – Trần, khiến người đọc rưng rưng! Bài thơ xứng đáng là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước ta, và ngàn đời sau, bài thơ vẫn là hồn thiêng sông núi vọng về.

phân tích bài sông núi nước nam